Thạc Sĩ Giá trị và vị trí tập thơ Việt Bắc trong hành trình thơ Tố Hữu

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu


    PHẦN MỞ ĐẦU



    1. Lý do chọn đề tài


    1.1. Tố Hữu là tác gia có vị trí đặc biệt trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam thế kỷ 20. Trong hơn nửa thế kỷ qua, thơ ông gắn liền với các giai đoạn, các mục tiêu của cuộc đấu tranh cách mạng, có sức cổ vũ to lớn với đông đảo quần chúng và thu hút sự quan tâm sâu sắc của giới phê bình, nghiên cứu văn học ở Việt Nam. Bộ tuyển tập Tố Hữu - Về tác giả và tác phẩm, do Nhà xuất bản Giáo dục in năm 2003 gồm 929 trang, thuộc loại lớn nhất, đã tuyển chọn những bài viết, những công trình nghiên cứu về giá trị tư tưởng, giá trị giáo dục và giá trị nghệ thuật trong thơ ông.
    Thế nhưng sau khi chiến tranh kết thúc (1975), cho đến khi đất nước bước sang thời kỳ đổi mới dường như thơ Tố Hữu có nhạt dần đi vị trí và vai trò của mình trong nền thơ ca dân tộc. Từ tập thơ Một tiếng đờn (1992), cho đến Ta với ta (2000) trong đời sống học đường hầu như không có một luận văn nào nghiên cứu về thơ ông. Các tác phẩm trước đó trong hành trình sáng tác của ông cũng ít được nhắc tới. Để bù đắp vào chỗ trống thiếu đó chúng tôi muốn góp một phần nhỏ bé để nhìn nhận lại giá trị của thơ Tố Hữu nói chung và tập thơ Việt Bắc nói riêng trong nền thơ ca dân tộc.
    1.2.Trong hành trình thơ Tố Hữu, tập thơ Việt Bắc (1954) và tập thơ Từ ấy lúc tái bản lần thứ nhất (1959), đã tạo nên hai cuộc tranh luận sôi nổi trong giới sáng tác và phê bình. Đáng chú ý là cuộc tranh luận về tập thơ Việt Bắc diễn ra ngay sau 1954, với những ý kiến nghiêng về phủ định nhằm hạ thấp giá trị thơ Tố Hữu, trên vấn đề đánh giá giá trị hiện thực, tính giai cấp, tính đảng của tập thơ, và cũng có nhiều ý kiến khẳng định giá trị cơ bản của tập Việt Bắc theo chiều hướng ngược lại. Do vậy chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu để định lại giá trị của tập thơ với tiêu đề: Giá trị và vị trí của tập thơ" Việt Bắc" trong hành trình thơ Tố Hữu.


    1.3. Tôi được sinh ra và lớn lên ở chiếc nôi quê hương cách mạng, gắn với cảnh quan thiên nhiên, và những con người bình dị đã làm nên lịch sử. Đó là mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào; là rừng cọ, đồi chè, bến nước Bình Ca những địa danh in đậm dấu ấn lịch sử của dân tộc ta trong chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Lịch sử nơi đây đã trở thành kỷ niệm gắn bó sâu nặng với Tố Hữu, và được kết đọng lại trong các vần thơ của ông, trước hết là tập thơ Việt Bắc.
    Là người con của quê hương cách mạng, và là giáo viên một trường phổ thông mang tên địa danh lịch sử Tân Trào, tôi rất yêu thích và có nhiều cảm xúc đối với thơ Tố Hữu, đặc biệt là tập thơ Việt Bắc, bởi ông đã ghi lại một cách chân thực những nét đẹp mộc mạc, giản dị của con người và cảnh quan thiên nhiên một miền sơn cước - nơi tôi sống và công tác. Vì vậy nếu đề tài được thực hiện thành công, chúng tôi hy vọng sẽ góp phần để tác phẩm Việt Bắc mãi mãi nhận được sự đón đợi và mến mộ của đông đảo bạn đọc, trong đó có người đọc là các thế hệ trẻ của quê hương tôi.
    2. Lịch sử vấn đề

    Trong hơn năm thập kỷ qua, thơ Tố Hữu đã trở thành một đối tượng nghiên cứu lớn của giới học thuật, thu hút đông đảo các nhà nghiên cứu, phê bình tên tuổi.
    2.1. Những bài nghiên cứu về thơ Tố Hữu nói chung

    Ngay từ khi thơ Tố Hữu mới xuất hiện rải rác trên báo chí cách mạng vào những năm cuối thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương, cùng với sự đón nhận nồng nhiệt của công chúng, giới văn học cách mạng đã đánh giá cao thơ ông. Trong bài viết đầu tiên giới thiệu về thơ Tố Hữu ( báo Mới, số 1, ngày 1-5-1939) tác giả K và T đã khẳng định:“ Thơ Tố Hữu là cả một nguồn sinh lực đem phụng sự cho lý tưởng”, “ Với Tố Hữu, chúng ta có một nhà thơ cách mạng có tài”, “nhà thơ chiến sĩ”, “ nhà thơ của tương lai”

    Từ sau 1954 cho đến sau 1975, có rất nhiều bài viết về thơ Tố Hữu. Đặc biệt có ba công trình biên khảo chuyên sâu về thơ ông. Đó là: Thơ Tố Hữu của Lê Đình Kỵ (1979), Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí của Nguyễn Văn Hạnh (1985) và Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử (1987). Hai công trình đầu tiếp cận thơ Tố Hữu theo phương pháp truyền thống, kết hợp khảo cứu công phu, khoa học với cảm thụ nghệ thuật tinh tế. Hai tác giả đã lần đầu tiên nghiên cứu thơ Tố Hữu như một chỉnh thể toàn vẹn, có hệ thống, với nhiều phát hiện và đánh giá quý báu theo phương pháp nghiên cứu mác xít.
    Công trình Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử tiếp cận thơ Tố Hữu theo hướng thi pháp học đem đến những cảm nhận và đánh giá mới mẻ về thơ Tố Hữu khác với cách phân tích truyền thống.
    Hà Minh Đức, cũng là một người bền bỉ, chuyên tâm nghiên cứu về thơ Tố Hữu qua hai Lời giới thiệu công phu cho hai Tuyển tập thơ Tố Hữu vào các năm 1979 (Nxb Văn học) và 1995 ( Nxb Giáo dục).
    Ngoài ra còn có rất nhiều bài nghiên cứu về thơ Tố Hữu ở trong và ngoài nước, tiêu biểu như của Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông, Nguyễn Đăng Mạnh, Vũ Đức Phúc, .Nhìn chung các bài nghiên cứu đều có sự nhìn nhận đánh giá những giá trị cơ bản và nổi bật của thơ Tố Hữu.
    2.2. Những bài nghiên cứu về các tập thơ của Tố Hữu

    Từ tập thơ đầu tay Từ ấy, đến các tập Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và Hoa, đã có hàng trăm bài viết, công trình nghiên cứu phê bình phong phú, đa dạng dọc theo đời thơ Tố Hữu suốt nửa thế kỷ qua.
    Tập thơ Từ ấy có các bài viết tiêu biểu của Đặng Thai Mai, Phan Cự Đệ, Vũ Đức Phúc, Hoài Thanh,
    Tập thơ Việt Bắc có các bài viết tiêu biểu của Vũ Đức Phúc, Hoài Thanh, Hoàng Trung Thông,

    Tập thơ Gió lộng có các bài viết tiêu biểu của Hoài Thanh, Lê Đình Kỵ, Nguyễn Văn Long, Hà Xuân Trường
    Các tập thơ khác có các bài viết của Hà Minh Đức, Nguyễn Văn Hạnh, Hoài Thanh,
    2.3. Xung quanh tập thơ "Việt Bắc"

    Có nhiều bài phê bình, đánh giá về tập Việt Bắc, đặc biệt xuất hiện tập trung trong cuộc tranh luận diễn ra vào năm 1954- 1955 với hai luồng cảm hứng. Luồng cảm hứng phủ định với những bài viết của Hoàng Yến, Hoàng Cầm, Lê Đạt Hoàng Yến phủ định“chủ nghĩa hiện thực trong tập thơ Việt Bắc". Nhận xét về bài thơ Bắn Hoàng Yến viết:“ Tác giả đã tổng kết sự việc trên tài liệu chứ chưa kinh qua thực tế của cuộc sống để tổng kết chất thơ”. “ Khi Tố Hữu nói về cái Việt Bắc oai hùng, cái đất thần thánh, thiêng liêng của cách mạng thì hơi thơ đuối, khí thơ đoản, cái nhiệt tình nóng cháy trên kia tưởng như giảm sút đi” . Cũng như Hoàng Yến, Hoàng Cầm nhận xét:“ Tập thơ Việt Bắc thiếu chất sống thực tế”, là“ thùng nước loãng”, là“ không hiện thực”, cụ thể khi nhận xét về bài Cá nước Hoàng Cầm viết: “Tình cảm gặp gỡ giữa anh cán bộ và anh bộ đội cũng chỉ nhẹ nhàng lớt phớt”. Ở bài Bắn“ Bài thơ tuy có vẻ sôi nổi giục bắn, mà thực ra bàng quan lạnh lùng” Lê Đạt nhận xét:“ Tính chất tiểu tư sản và xa thực tế là hai khuyết điểm căn bản nó cản trở khả năng hiện thực của Tố Hữu. Nó là nguyên nhân của cái buồn, cái công thức, cái hời hợt rải rác trong tập thơ".
    Bác lại các ý kiến trên là những bài viết khẳng định giá trị cơ bản và nổi bật của tập thơ Việt Bắc, như của Hoài Thanh, Nguyễn Đình Thi, Vũ Đức Phúc, Xuân Diệu, cùng một số bạn đọc. Vũ Đức Phúc nhận xét về tập thơ Việt Bắc, cụ thể bài thơ Em bé Triều Tiên “những dòng thơ của Tố Hữu, ngoài việc tả những cảnh thảm thiết, điển hình, có thực, cũng không có một chữ nào nói quá đi để làm cho người đọc ghê rợn”. Hoài Thanh khẳng định “Cả tập thơ Việt Bắc xây dựng trên một tình yêu lớn: tình yêu nước. Giá trị tập thơ, tác dụng tập thơ là ở

    đó”. Nguyễn Đình Thi cũng đánh giá cao thơ Tố Hữu“ Thơ Tố Hữu đi vào thực tế quần chúng”. Xuân Diệu rất nhạy cảm để chỉ ra nét riêng của thơ Tố Hữu là“ Tiếng thơ của tình thương mến” làm nên“ hương vị của thơ Tố Hữu” và là nét chủ đạo trong phong cách nghệ thuật của ông.
    Cuộc thảo luận kết thúc với bài tổng kết của Hoàng Trung Thông về tập thơ Việt Bắc ( Báo Nhân dân, 11-1955).
    Năm 2005, Lại Nguyên Ân tập hợp những bài viết trong cuộc thảo luận, thành một ấn phẩm sưu tầm và biên soạn có tên: Tư liệu thảo luận 1955 về tập thơ" Việt Bắc".
    Nhìn chung, trong quan niệm văn học và cách phê bình lúc này, tính chất xã hội học là nét khá đậm, ở cả những ý kiến đề cao lẫn những ý kiến hạ thấp giá trị tập thơ. Qua hai luồng cảm hứng phủ định và khẳng định giá trị cơ bản của tập thơ, ta thấy những bài viết mang quan điểm phủ định quy chiếu tác phẩm văn học vào các nội dung xã hội, chính trị, đồng nhất văn học với chính trị, vận dụng quan điểm giai cấp một cách máy móc để phân tích văn học. Thậm chí đôi khi còn cường điệu, không nói đúng những gì tác phẩm vốn có, dẫn đến nhận định mang tính chủ quan cho rằng thơ Tố Hữu là“ bản chất tiểu tư sản cách mạng, chủ nghĩa ái quốc trong tập thơ Việt Bắc là chủ nghĩa ái quốc lãng mạn tiểu tư sản”.
    Trong cuộc thảo luận này ngoài hai luồng ý kiến ngược nhau như trên, cũng đã có nhiều bài phê bình thực sự có giá trị, khám phá và phân tích những giá trị nổi bật của tập thơ Việt Bắc. Để nhìn nhận đúng giá trị, vị trí của tập thơ, ta phải đặt tập thơ trong hoàn cảnh lịch sử xã hội lúc đó. Cụ thể là trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946- 1954), thơ Tố Hữu giữ một vị trí quan trọng trong thơ kháng chiến, và được phổ biến rộng rãi, bởi thơ ông đáp ứng được sớm nhất và tốt nhất cho hai yêu cầu cơ bản của văn học cách mạng và kháng chiến- đó là dân tộc hoá và đại chúng hoá như đã được đặt ra trong Đề cương về văn hoá Việt Nam 1943; và hai phương châm: Cách mạng hoá tư tưởng và quần

    chúng hoá sinh hoạt, trong những năm sau đó khi cả dân tộc bước vào cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp. Trong nền thơ kháng chiến chống Pháp không có một tên tuổi nhà thơ nào có được vị trí xứng đáng như nhà thơ Tố Hữu. Các tác giả khác tên tuổi họ thường chỉ gắn với một hoặc vài bài thơ như Hoàng Lộc với Viếng bạn, Hồng Nguyên với Nhớ, Tân Sắc với Lên Cấm Sơn, Trần Hữu Thung với Thăm lúa, Hồ Vi với Lời quê, Quang Dũng với Tây tiến Riêng Tố Hữu là sự xuất hiện liên tục, đều đặn những bài thơ được quần chúng yêu mến, cho đến bài thơ dài Việt Bắc được chọn làm tên chung cho tập thơ gồm 37 bài được ấn hành ngay sau hoà bình lặp lại 1954.
    2.4. Khảo sát văn bản tập thơ Việt Bắc

    Tìm hiểu giá trị tập thơ Việt Bắc, trên từng bài riêng lẻ, hoặc chung cho cả tập thơ, chúng ta không thể không kháo sát quá trình nhà thơ sửa chữa trên từng bài, và thêm bớt qua mỗi lần tái bản; qua đó thấy nhà thơ đã dụng công như thế nào để cho Việt Bắc luôn luôn đạt được sự hoàn thiện tối ưu trong tiếp nhận và cảm xúc thẩm mỹ của người đọc. Chưa có điều kiện khảo sát kỹ tất cả các bài; ở đây chúng tôi mới chỉ nêu hai trường hợp ghi nhận sự sửa chữa cẩn trọng của tác giả, từ khi in báo, và được đưa vào sách- đó là bài Lên Tây Bắc và bài Lượm.
    ● Bài Lên Tây Bắc, đăng lần đầu trên Tạp chí Văn nghệ (số 8, 9 ), tháng 1,

    2 năm 1949; với mở đầu:

    Các anh đi trước, tôi đi sau

    Cũng lá che lưng lá lợp đầu

    Bỡ ngỡ anh trông người lính lạ

    Theo anh không biết để đi đâu



    Sáng nay ra trận lên Tây Bắc Hai đứa ta cùng đi đánh giặc Tay anh cắp súng vai đeo dao
    Tôi có gì đâu, chỉ cái xắc Tôi đi như đứa trẻ thơ ngây Được mẹ cho theo dự cỗ đầy .

    Khi đưa vào tập thơ Việt Bắc, theo văn bản in xong ngày 15.4.1955 bốn câu thơ đầu đã bị lược bỏ và sáu câu thơ sau rút lại còn bốn câu thơ:
    Sáng nay ra trận lên Tây Bắc Hai đứa ta cùng đi đánh giặc Tay dao tay súng, gạo đầy bao Chân cứng đạp rừng gai đá sắc.
    ● Bài Lượm, đăng lần đầu trên báo Cứu quốc ngày 15.4.1948, với đoạn mở

    đầu như sau:

    Cháu Nha Trang ra

    Gặp chú ở Huế Chú hỏi : Còn ba? Cháu rằng: Mặc kệ !
    Cháu không thương ba? Có. Nhưng ba sợ
    Ba chẳng chịu ra

    Ba làm cho nó.



    Cháu theo ông nội Cháu lên Xuân Trường Ông theo bộ đội
    Ông nội, cháu thương! Rồi Huế đổ máu .



    Khi đưa vào tập Việt Bắc theo văn bản in xong ngày 15.4.1955, thì 12 câu thơ đầu được cắt bỏ và bài thơ được bắt đầu từ câu thơ:
    Ngày Huế đổ máu Chú Hà Nội về Tình cờ chú cháu
    Gặp nhau Hàng Bè .

    Phần cuối bài Lượm in xong ngày 15.4.1948 như sau:

    Thư đề "thượng khẩn" Chú ngã : Ruột phèo Chú đã chết
    Chết.

    Chết thật rồi . Lượm ơi!
    A chú cười

    Híp mí

    Chú đồng chí Chắc bây giờ Chú nửa ngờ Chú chưa biết Chú chết .
    Chú bé loắt choắt

    Phần cuối bài Lượm in xong ngày 15.4.1955 được thay bằng một đoạn thơ khác: Vụt qua mặt trận
    Đạn bay vèo vèo

    Thư đề" Thượng khẩn" Sợ chi hiểm nghèo!


    Đường quê vắng vẻ

    Lúa trổ đòng đòng



    Ca- lô chú bé

    Nhấp nhô trên đồng .



    Bỗng loè chớp đỏ Thôi rồ, Lượm ơi! Chú đồng chí nhỏ Một dòng máu tươi!


    Cháu nằm trên lúa Tay nắm chặt bông Lúa thơm mùi sữa Hồn bay giữa đồng.


    Lượm ơi còn không?

    ● Số lượng bài của Việt Bắc từ lần in đầu đến các lần in sau cũng có thay đổi.

    * Văn bản in xong ngày 15.4.1955, gồm 24 bài thơ.

    * Văn bản in xong tháng 12 năm 1998, gồm 27 bài thơ.

    - Thêm: 7 bài thơ ( Đêm xanh, Tình khoai sắn, Trường tôi, Lạnh lạt, Sợ, Bà bủ, Mưa rơi)
    - Bỏ : 4 bài thơ ( Em bé Triều Tiên, Bao giờ hết giặc, Bài ca tháng Mười,

    Đời đời nhớ Ông)

    Nhìn vào sự thay đổi này, chúng ta cũng có thể thấy những biến động lớn

    của thời cuộc đã quy định chặt chẽ giá trị của tác phẩm như thế nào.

    Trên đây là khảo sát bước đầu của chúng tôi (chưa thật đầy đủ) về văn bản tập thơ Việt Bắc đã được in và sửa chữa ở những thời gian khác nhau. Khi nghiên cứu chúng tôi dựa theo văn bản in xong tháng 12 năm 1998.



    3. Mục đích nghiên cứu

    Luận văn nhằm chỉ rõ những giá trị về nội dung và nghệ thuật của tập thơ Việt Bắc, đồng thời khẳng định vai trò của tập thơ Việt Bắc trong nền thơ ca kháng chiến chống Pháp và rộng ra là nền thơ ca hiện đại Việt Nam.
    4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

    Để thực hiện luận văn, chúng tôi đã được tham khảo và nghiên cứu các tài liệu sau.
    - Toàn bộ thơ ca kháng chiến chống Pháp (1945- 1954)

    - Tập thơ Việt Bắc từ văn bản 1 đến văn bản cuối cùng.

    - Trong khi tập trung khảo sát tập thơ Việt Bắc, chúng tôi chú ý hai tập thơ

    có mối liên hệ kề cận là tập thơ Từ ấy và tập thơ Gió lộng.

    - Các công trình, bài viết xung quanh giá trị tập thơ Việt Bắc và về thơ Tố

    Hữu nói chung.

    5. Nhiệm vụ nghiên cứu

    - Luận văn chỉ ra những giá trị nội dung và nghệ thuật của tập thơ Việt Bắc.

    - Khẳng định vị trí của tập thơ trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam.

    6. Phương pháp nghiên cứu

    - Phương pháp so sánh- đối chiếu.

    - Phương pháp phân tích- tổng hợp.

    7. Cấu trúc của luận văn

    Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có cấu trúc gồm 3 chương: Chương 1: Việt Bắc trong nền thơ Việt Nam từ 1945->1954.
    Chương 2: Giá trị nội dung của tập thơ Việt Bắc.

    Chương 3: Giá trị nghệ thuật của tập thơ Việt Bắc.






    MỤC LỤC


    PHẦN MỞ ĐẦU . 1


    1. Lý do chọn đề tài 1

    2. Lịch sử vấn đề 2

    2.1. Những bài nghiên cứu về thơ Tố Hữu nói chung . 2

    2.2. Những bài nghiên cứu về các tập thơ của Tố Hữu 3

    2.3. Xung quanh tập thơ "Việt Bắc" 4

    2.4. Khảo sát văn bản tập thơ Việt Bắc . 6

    3. Mục đích nghiên cứu 10

    5. Nhiệm vụ nghiên cứu . 10

    6. Phương pháp nghiên cứu 10

    7. Cấu trúc của luận văn . 10


    Chương 1: "VIỆT BẮC" TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 11

    1.1. Tổng quan về thơ Việt Nam 1945 đến 1954 . 11

    1.2. Con đường thơ Tố Hữu từ tập thơ Từ ấy sang tập thơ Việt Bắc . 18

    1.2.1. Từ tập thơ "Từ ấy" . . 18

    1.2.2 . đến tập thơ "Việt Bắc" . 21


    Chương 2: GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA TẬP THƠ“ VIỆT BẮC” . 25

    2.1. Khát vọng và niềm vui giải phóng Đất nước qua các chặng đường 25

    2.1.1. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 25

    2.1.2. Kháng chiến chín năm 27

    2.1.3. Chiến thắng Điện Biên phủ . 29

    2.2. Cái "tôi" tác giả gắn với cái "ta"quần chúng trong bức tranh nhân dân kháng chiến 31
    2.2.1. Hình ảnh người lính 31

    2.2.2. Hình ảnh người phụ nữ . 45







    Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.Lrc-tnu.edu.vn



    2.3. Tình yêu quê hương đất nước 53

    2.4. Tình cảm gắn bó với lãnh tụ và quê hương cách mạng 59


    Chương 3: GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TẬP THƠ “ VIỆT BẮC” 72

    3.1. Sự gắn bó khăng khít giữa tính dân tộc và tính đại chúng 72

    3.1.1. Thể thơ, câu thơ 72

    3.1.2. Nhạc điệu 78

    3.1.3. Ngôn ngữ, hình ảnh 88

    3.1.4. Niêm luật và vần . 92

    3.2. Sự kết hợp giữa tính dân tộc và âm hưởng hiện đại . 96


    KẾT LUẬN . 100

    TÀI LIỆU THAM KHẢO . 102
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...