Tài liệu Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

Thảo luận trong 'Kinh Tế Vi Mô' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa

    I.
    Mở đầu ( lý do chọn đề tài ).
    Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào ? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ hệ trọng, muốn trả lời thật không đơn giản. Suốt một thời gian dài, Việt Nam, cũng như nhiều nước khác, đã áp dụng mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết, mô hình kinh tế kế hoạch tập trung mang tính bao cấp. Mô hình này đã thu được những kết quả quan trọng, nhất là đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ đất nước có chiến tranh. Nhưng về sau mô hình này bộc lộ những khuyết điểm; và trong công tác chỉ đạo cũng phạm phải một số sai lầm mà nguyên nhân sâu xa của những sai lầm đó là bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội, không tôn trọng quy luật khách quan, nhận thức về chủ nghĩa xã hội không đúng với thực tế Việt Nam.

    II. Nội dung

    1.Thời kỳ trước đổi mới trước năm 1986
    Giai đoạn, đầu thập niên 1980, khủng hoảng kinh tế-xã hội nổ ra, lạm phát tăng lên mức phi mã đặc biệt sau hai cuộc tổng điều chỉnh giá-lương-tiền.Nền kinh tế nước ta bắt đầu được xây dựng với những công tác đầu tiên là công cuộc công nghiệp hóa đất nước đẩy mạnh kinh tế.
    a. Bối cảnh
    Thời kỳ trước đổi mới , nước ta đã có khoảng 25 năm tiến hành công nghiệp hóa qua 2 giai đoạn : từ năm 1960 đến 1975 triển khai ở miền Bắc và từ năm 1975 đến 1985 thực hiện trên phạm vi cả nước.
    + Từ năm 1960 – 1975, miền Bắc đi lên xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu mà không qua giai đoạn phát triển Tư Bản Chủ Nghĩa. Miền Bắc vừa xây dựng bảo vệ đất nước vừa làm hậu phương vững chắc cho miền Nam.
    Trong thời gian này, đường lối công nghiệp hóa đất nước đã được hình thành từ đại hội 3 của Đảng (9/1960). Đại hội khẳng định : muốn cải biến tình trạng nền kinh tế lạc hậu của nước ta, không có con đường nào khác ngoài con đường công nghiệp hóa XHCN. Khẳng định tính tất yếu của công nghiệp hóa đối với công cuộc xây dừng CNXH ở nước ta.
    + Từ năm 1975 – 1985: sau đại thắng mùa xuân năm 1975 cả nước được độc lập, thống nhất và quá độ đi lên CNXH và kế hoạch đặt ra là xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc.
    b. Nội dung:
    Đại hội 3 đã chỉ rõ mục tiêu cơ bản của công nghiệp hóa XHCN là xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cân đỗi và hiện đại, bước đầu xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của CNXH. Đây là mục tiêu cơ bản, lâu dài và phải thực hiện qua nhiều giai đoạn.
    Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khóa III) nêu ra phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển công nghiệp là:
    - Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng
    - Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp với phát triển nông nghiệp.
    - Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ song song với phát triển ưu tiên công nghiệp nặng.
    - Ra sức phát triển công nghiệp trung ương, đồng thời đẩy mạnh công nghiệp địa phương.
    Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện đặc điểm, tình hình trong nước và quốc tế, đại hội IV của Đảng (12/1976) đề ra đường lối công nghiệp hóa XHCN tương tự như đại hội III. Xác định chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ ở nước ta phải lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng; việc xây dựng và phát triển công nghiệp nặng trong giai đoạn này cần làm có mức độ, vừa sức, nhằm phục vụ thiết thực, có hiệu quả cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Đây là sự điều chỉnh đúng đắn bước đi của công nghiệp hóa, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, trên thực tế chúng ta lại không làm đúng sự điều chỉnh chiến lược quan trọng này.
    Có thể thấy trước đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta là cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp. Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới, giao chỉ tiêu kế hoạch, cấp phát vốn đầu tư . Các cơ quan hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chât và pháp lý đối với các quyết định của mình. Vì nhà nước quản lý kinh tế thông qua chế độ “ cấp phát - giao nộp” nên quan hệ hàng hóa tiền tệ bị coi nhẹ. Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian, phong cách cửa quyền. quan liêu nhưng lại được hưởng quyền lợi cao hơn người lao động. Nhà nước bao cấp từ giá cả ( định giá trị vật tư, thiết bị), bao cấp qua tem phiếu bằng cách quy định chế độ phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên theo định mức; bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách.
    Ở thời kỳ đó thì cơ thế này nó cho phép tận dụng tối đa các nguồn lực kinh tế vào các mục tiêu chủ yếu trong từng giai đoạn và điều kiện cụ thể nhưng đồng thời nó lại thủ tiêu, cạnh tranh kìm hãm sự tiến bộ của khoa học công nghệ, triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động, không kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất, kinh doanh. Do thừa nhận sản xuất hàng hóa và cơ chế thị trường, chúng ta xem kế hoạch hóa là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế xã hội chủ nghĩa, phân bổ mọi nguồn lực theo kế hoạch là chủ yếu; coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch. Không thừa hận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ. Nền kinh tế nước ta rơi vào tình trạng trì trệ, khủng hoảng.

    2. Chủ trương xây dựng
    a. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
    Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế –xã hội vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên những nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Bởi vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại trong nhau, kết hợp với tế nhau và bổ sung cho nhau. Đó là, nhóm nhân tố của kinh tế thị trường và nhóm nhân tố của xu hướng mới đang vận động, đang phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhóm thứ nhất đóng vai trò động lực thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển nhanh, hiệu quả; nhóm thứ hai đóng vai trò hướng dẫn, chế định sự vận động của nền kinh tế theo những mục tiêu đã xác định, bổ sung những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của thị trường, hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội.
    Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta có ba điểm rất cơ bản là: lấy chế độ công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu làm nền tảng và kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc dân; kết hợp nhiều hình thức phân phối, trong đó phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, thực hiện tốt các chính sách xã hội; Nhà nước xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của dân, do dân, vì dân thực hiện chức năng quản lý nền kinh tế thị trường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
    b. Vậy tại sao phải xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa?
    - Như mọi người đã biết, kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế phản ảnh trình độ phát triển nhất định của văn minh nhân loại. Từ trước đến nay nó tồn tại và phát triển chủ yếu dưới chủ nghĩa tư bản, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa tư bản đã biết lợi dụng tối đa ưu thế của kinh tế thị trường để phục vụ cho mục tiêu phát triển tiềm năng kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận, và một cách khách quan nó thúc đẩy lực lượng sản xuất của xã hội phát triển mạnh mẽ. Ngày nay, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh trong các nước tư bản phát triển.
    - Mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết là một kiểu tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế muốn sớm khắc phục những khuyết tật của chủ nghĩa tư bản, muốn nhanh chóng xây dựng một chế độ xã hội tốt đẹp hơn, một phương thức sản xuất văn minh, hiện đại hơn chủ nghĩa tư bản. Đó là một ý tưởng tốt đẹp, và trên thực tế suốt hơn 70 năm tồn tại, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô đã đạt được nhiều thành tựu vĩ đại, làm thay đổi hẳn bộ mặt của đất nước và đời sống của nhân dân Liên Xô. Nhưng có lẽ do nôn nóng, làm trái quy luật (muốn xóa bỏ ngay kinh tế hàng hóa, áp dụng ngay cơ chế kinh tế phi thị trường), không năng động, kịp thời điều chỉnh khi cần thiết cho nên rút cuộc đã không thành công.
    - Việt Nam là một nước nghèo, kinh tế – kỹ thuật lạc hậu, trình độ xã hội còn thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt Nam .
    Mặt khác “cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp từ nhiều năm nay không tạo được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả, gây rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội”[SUP]1[/SUP]. Chính vì vậy mà việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cần thiết và cấp bách.
    c. Chủ trương xây dựng

    Trước tình hình đó Đảng ta đã bắt đầu đề cập đến sự cần thiết đổi mới cơ chế quản lý kinh tế tại đại hội VI. Đại hội đã thảo luận và thông qua các nghị quyết về các văn kiện như :báo cáo chính trị; phương hướng; mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm năm 1986-1990; báo cáo về bổ sung điều lệ Đảng.Đại hội đã đánh giá những thành tựu những khó khăn của Việt Nam do cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội tạo ra. Những sai lầm kéo dài của Đảng về chủ trương, chính sách lớn về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện khuynh hướng tư tưởng chủ yếu của nhũng sai lầm đó, đặc biệt sai lầm về kinh tế là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ về hành động đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan là khuynh hướng trong buông lỏng quản lý kinh tế, xã hội, không chấp hành nghiêm chỉnh đường lối nguyên tắc của Đảng đó là tư tưởng vừa tả khuynh vừa hữu khuynh. Đồng thời Đảng cũng đề ra những mục tiêu cần đạt được cho những năm tiếp đó bằng cách đổi mới. Đổi mới về kinh tế là xóa bỏ kinh tế bao cấp, thực hiện cơ cấu kinh tế nhiều thành phần .Đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế: cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới về nội dung và cách thức công nghiệp hóa, thực hiện 3 chủ trương kinh tế:
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...