Luận Văn Đồng tiền chung Asean sự cần thiết phát triển khu vực

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    [TABLE="class: itemDisplayTable"]
    [TR]
    [TD="class: metadataFieldLabel"]Tựa đề:[/TD]
    [TD="class: metadataFieldValue"]Đồng tiền chung Asean sự cần thiết phát triển khu vực[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD="class: metadataFieldLabel"]Từ khóa:[/TD]
    [TD="class: metadataFieldValue"]Tiền tệ
    ASEAN
    Luận văn thạc sĩ
    Phát triển[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD="class: metadataFieldLabel"]Ngày phát hành:[/TD]
    [TD="class: metadataFieldValue"]29-Apr-2009[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD="class: metadataFieldLabel"]Nhà xuất bản:[/TD]
    [TD="class: metadataFieldValue"]Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD="class: metadataFieldLabel"]Series/Report no.:[/TD]
    [TD="class: metadataFieldValue"]Tp. Hồ Chí Minh
    2006
    126tr.[/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD="class: metadataFieldLabel"]Tóm tắt:[/TD]
    [TD="class: metadataFieldValue"]CHƯƠNG I: VẤN ĐỀ ĐỒNG TIỀN CHUNG. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG KINH TẾ TÀI CHÍNH ASEAN. CHƯƠNG III: ĐỒNG TIỀN CHUNG ASEAN SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN KHU VỰC.[/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]





    CHƯƠNG I: VẤN ĐỀ ĐỒNG TIỀN CHUNG
    1.1 Tiền tệ
    1.1.1 Bản chất :
    Tiền tệ là một hàng hoá đặc biệt, đóng vai trò vật ngang giá chung để đo
    lường và biểu hiện giá trị của tất cả các hàng hoá khác; đồng thời nó thể hiện lao
    động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất.
    Bản chất này xuất phát từ việc ra đời là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của
    các hình thái giá trị :
    ã Ở hình thái giá trị giản đơn ngẫu nhiên của giá trị, giá trị của một vật được
    biểu hiện bằng giá trị sử dụng của một vật khác đóng vai trò là vật ngang giá.
    ã Ở hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng, giá trị của một vật được biểu hiện ở
    giá trị sử dụng của nhiều hàng hoá khác có tác dụng làm vật ngang giá.
    ã Ở hình thái chung của giá trị, giá trị của tất cả hàng hoá được biểu hiện bằng
    giá trị của một hàng hoá đóng vai trò là vật ngang giá chung. Vật ngang giá chung
    này được chọn tùy theo tập quán địa phương mang ý nghĩa tượng trưng như lông
    thú, da thú, vòng đá, vỏ sò .
    ã Ở hình thái tiền tệ, khi lực lượng sản xuất phát triển, việc tồn tại nhiều vật
    ngang giá chung gây khó khăn cho thị trường trao đổi hàng hoá. Điều này dẫn đến
    sự ra đời của vật ngang giá chung bằng kim loại thay thế dần cho các vật ngang giá
    chung khác, mà đáng kể nhất đó là bạc, sau đó là vàng (kim tệ)
    Như vậy, tiền tệ là một sản phẩm tự phát và tất yếu. nó gắn liền vời sự tồn tại
    và phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Không những thế, nó còn chứa đựng và
    biểu hiện nhiều mối quan hệ xã hội giữa người với người.
    1.1.2 Chức năng :
    Tiền tệ có 5 chức năng như sau :
    a./ Chức năng thước đo giá trị : Đây là chức năng cơ bản của tiền tệ. Chức năng này
    được thể hiện thông qua việc tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị cho các
    hàng hoá khác và chuyển giá trị hàng hoá thành giá cả hàng hoá. Để thực hiện chức
    năng này, tiền tệ đòi hỏi phải có giá trị đầy đủ, có tiêu chuẩn giá cả, và được thể
    Trang : 2
    hiện trong tư duy, ý niệm. Việc giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá đã
    tạo mối tương quan nghịch giữa giá trị tiền tệ và giá cả hàng hoá, đồng thời cho
    thấy rằng tiền tệ là một công cụ đặc biệt quan trọng để thực hiện quy luật giá trị,
    quy luật phổ thông của nền sản xuất hàng hoá.
    b./ Chức năng phương tiện lưu thông : Thể hiện ở việc tiền được dùng làm phương
    tiện trung gian cho quá trình trao đổi hàng hoá (H-T-H) và phương tiện để thực hiện
    giá trị của hàng hoá. Điều này thể hiện ở việc hàng hoá sẽ không được phép trao đổi
    trực tiếp (H-H), mà trước tiên, giá trị của hàng hoá được biểu hiện thành giá trị tiền
    tệ thông qua việc bán hàng hoá (H-T) ; rồi sau đó, hàng hoá đựợc mua lại với giá trị
    tương đương với giá trị tiền tệ (T-H).
    Như vậy, tiền tệ không phải là mục đích của trao đổi, mà chỉ đóng vai trò
    trung gian. Tuy nhiên, để tạo một sự lưu thông hàng hoá được mạch lạc, cần thiết
    phải có một khối lượng tiền thật sự và tiền này cũng không nhất thiết phải là tiền có
    đầy đủ giá trị như vàng, nó được thay thế bằng các loại tiền ký hiệu.
    c./ Chức năng phương tiện cất trữ : Chức năng này được thể hiện ở việc tiền được
    đưa ra khỏi quá trình lưu thông nhằm mục đích cất trữ và sử dụng sau này.
    Xuất phát từ khả năng có thể trực tiếp chuyển hoá thành bất kỳ một loại hàng
    hoá nào, tiền cất trữ phải có đầy đủ giá trị và tạm thời không phục vụ cho quá trình
    lưu thông hàng hoá. Tuy nhiên, người ta cũng có thể sử dụng tiền ký hiệu cho việc
    cất trữ, các loại tiền này được đảm bảo bằng vàng của quốc gia sản xuất tiền giấy ký
    hiệu đó.
    d./ Chức năng phương tiện thanh toán: Chức năng này đựợc thể hiện ở việc tiền
    đựơc dùng làm phương tiện để thanh toán các khoản nợ phát sinh trong trao đổi
    hàng hoá, dịch vụ và các lĩnh vực khác. Khi thực hiện chức năng này, tiền vận động
    tương đối độc lập so với hàng hoá, dịch vụ thậm chí giữa chúng với nhau cũng có
    một sự tách rời nhau cả về không gian và thời gian. Do đó, tiền ở đây có thể là tiền
    vàng, hoặc tiền ký hiệu, hay tiền ghi sổ. Mặc dù vậy, tiền vẫn không nằm ngoài quá
    trình lưu thông, mà còn có tác dụng tích cực thúc đẩy quá trình tiêu thụ hàng hoá ;
    từ đó, giúp cho sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển.
     
Đang tải...