Thạc Sĩ động học spin của polariton dưới ảnh hưởng của trường bơm phân cực

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 8/12/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Mở đầu
    v
    Thập niên từ 1992 đến 2002 trong quang bán dẫn có thể được gọi là “thập niên
    của microcavities”. Về sau, microcavities càng được quan tâm nghiên cứu. Hàng
    ngàn bài báo, cả lý thuyết và thực nghiệm về tương tác vật chất-ánh sáng của
    những nhà khoa học như : Ivchenko, Andreani, Skolnick, Baumberg, Yamamoto,
    K. Kavokin, A. Kavokin, Malpuech, D. B Tran Thoai và cộng sự, được đăng
    trên các tạp chí khoa học lớn. Microcavities vẫn là một trong những hệ bán dẫn
    hấp dẫn nhất, và rất phong phú với nhiều hiệu ứng cơ bản mới. Những hiệu ứng
    này bao gồm tương tác mạnh của photon và exciton, tương tác quang của những
    giếng thế lượng tử bị chia cắt, ngưng tụ Bose, Nhiều phòng thí nghiệm trên khắp
    thế giới đang cố gắng phát triển những mẫu microcavities. Tất cả những loại công
    nghệ quang phổ đang được áp dụng để nghiên cứu những tính chất của excitonpolariton
    trong những microcavities, và những hiện tượng quan sát được đang là
    những thách đố đối với những người làm lý thuyết trong lĩnh vực này.
    Đối với exciton-polariton trong các microcavities, hai hướng thu hút quan tâm
    nghiên cứu của các nhà khoa học là: ngưng tụ Bose-Einstein của polariton và động
    học spin của polariton. Thực chất của hướng tìm kiếm ngưng tụ Bose-Einstein là
    tìm kiếm sự ngưng tụ của exciton hai chiều đã bị photon hóa bằng cách đặt một
    giếng lượng tử bên trong một mirocavity. Trong cấu trúc này, một exciton hai
    chiều sẽ tương tác với một photon tạo ra một giả hạt mới có bản chất nữa exciton
    nữa photon và được gọi là microcavity polariton. Quá trình tìm kiếm ngưng tụ
    song song với quá trình tạo nên trạng thái coherence, hay laser. Vì năng lượng liên
    kết của một exciton nhỏ hơn nhiều so với năng lượng liên kết của một điện tử với
    hạt nhân nguyên tử, nên năng lượng để tạo ra các trạng thái kích thích chuẩn bị
    cho hoạt động của laser đối với exciton cũng nhỏ hơn nhiều.
    Hướng còn lại nghiên cứu động học spin của polariton, và cũng là hướng đề tài
    này thực hiện.
    vi
    Trong suốt những năm đầu nghiên cứu lý thuyết về động học polaritons, phân
    cực của polariton không được xem xét. Tuy nhiên, động học spin của exciton
    polaritons trong những microcavities là rất phức tạp. Khi được kích thích bằng ánh
    sáng, các polaritons thừa hưởng moment dipole và moment spin của ánh sáng kích
    thích. Trạng thái của chúng được đặc trưng đầy đủ bởi “giả spin” tính cho cả sự
    định hướng moment dipole và moment spin. Ngay từ khi hình thành trong
    microcavities, các polaritons bắt đầu thay đổi trạng thái giả spin của chúng dưới
    ảnh hưởng của các trường hiệu dụng, tán xạ với phonon và polaritons khác, Điều
    này làm cho động học polaritons phong phú và phức tạp. Sau đó người ta phát hiện
    ra rằng sự hồi phục xung lượng và năng lượng của exciton polaritons phụ thuộc
    vào spin, phân cực spin của những trạng thái đầu và trạng thái cuối có ảnh hưởng
    lớn đến tốc độ tán xạ của những trạng thái này, những điều kiện tới hạn cho ngưng
    tụ Bose của polaritons cũng phụ thuộc phân cực.
    Một exciton hình thành từ một điện tử và một lỗ trống. Cả hai điện tử và lỗ trống
    là những fermion, điện tử trong vùng dẫn với S-đối xứng (số lượng tử l = 0) có
    hình chiếu moment góc lên một trục xác định bằng 1
    2
    z z
    Je = Se = ± , lỗ trống trong
    vùng hóa trị với P-đối xứng (số lượng tử l = 1) có hình chiếu spin lên trục xác định
    bằng z z z
    h h h J = S +M
    1
    2
    = ± , 3
    2
    ± . Đối với lỗ trống trạng thái có spin bằng 1
    2
    z
    h J = ± khi spin và moment
    quỹ đạo của nó đối song. Trạng thái này gọi là lỗ trống nhẹ. Nếu spin và moment
    quỹ đạo song song sẽ hình thành trạng thái lỗ trống nặng có spin bằng 3
    2
    z
    h J = ± .
    Trong bán dẫn, một exciton có cấu trúc tương tự như nguyên tử hyđro. Một sự
    khác nhau quan trọng là một exciton chuyển động như một toàn bộ bên trong tinh
    vii
    thể và nó chưa bao giờ tồn tại trong trạng thái cân bằng. Thông thường những
    excitons được tạo ra bởi kích thích quang. Một exciton có thời gian sống nhất định
    tương ứng với sự tái kết hợp của điện tử dẫn và lỗ trống. Trong những mẫu khối,
    tại k = 0 những trạng thái lỗ trống nặng và lỗ trống nhẹ bị suy biến. Tuy nhiên,
    trong những giếng lượng tử, sự giam cầm lượng tử theo hướng trục phát triển cấu
    trúc đã tách sự suy biến này để những mức năng lượng của lỗ trống nặng nằm gần
    đáy của giếng thế hơn so với những mức năng lượng của những lỗ trống nhẹ. Do
    điều này, trạng thái cơ bản của exciton hình thành từ một điện tử dẫn và một lỗ
    trống nặng. Vì vậy, tổng moment góc J ( cũng được xem như spin của exciton )
    của trạng thái cơ bản của exciton có hình chiếu spin lên trục phát triển cấu trúc
    bằng ±1,±2 . Điều này cho thấy các exciton và exciton polaritons là những boson
    trong giới hạn nồng độ thấp.
    Từ điều kiện bảo toàn spin trong quá trình hấp thụ photon của exciton khi nó bị
    kích thích quang, chỉ những trạng thái exciton có spin bằng ±1 bị kích thích và nó
    được gọi là những trạng thái exciton sáng. Những trạng thái exciton có spin bằng
    ±2 không bị kích thích được gọi là những trạng thái exciton tối, vì vậy chúng ta sẽ
    không xét chúng trong khi nghiên cứu động học của exciton trong microcavities
    lượng tử. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng trong một vài trường hợp trạng thái tối
    vẫn được xem xét bởi nó có thể trộn với trạng thái sáng do chịu ảnh hưởng của
    một từ trường nằm trên mặt phẳng vuông góc với trục phát triển, hoặc do tán xạ
    polariton-polariton.
    Điều kiện bảo toàn spin trong hấp thụ photon cho phép chúng ta có thể định
    hướng spin của exciton thông qua ánh sáng kích thích phân cực. Ánh sáng phân
    cực tròn s - và s + kích thích những excitons có spin tương ứng -1 và +1. Ánh
    sáng phân cực thẳng kích thích một tổ hợp tuyến tính những trạng thái exciton có
    spin bằng -1 và +1, để tổng hình chiếu spin lên trục phát triển của exciton trong
    viii
    trường hợp này bằng không, trong khi những thành phần moment lưỡng cực của
    exciton trên mặt phẳng vuông góc với trục phát triển cấu trúc là khác không.
    Luận văn được trình bày trong bốn chương. Trong chương một, chúng tôi trình
    bày những vấn đề cơ bản của vật lý spin và vật lý bán dẫn. Chương hai trình bày
    các yếu tố ảnh hưởng đến sự hồi phục spin. Chương ba trình bày hình thức luận
    giả spin của exciton polariton và dẫn ra các phương trình động học cho số hạt cũng
    như động học spin của polariton trong các microcavities. Chương bốn giải số các
    phương trình động học cho số hạt và spin của polariton theo các trường bơm phân
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...