Thạc Sĩ Đồng âm và đa nghĩa trong tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Hán hiện đại)

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 22/11/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Luận án tiến sĩ năm 2011
    Đề tài: Đồng âm và đa nghĩa trong tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Hán hiện đại)
    Định dạng file word


    DẪN NHẬP
    1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
    Đồng âm (ĐÂ), đa nghĩa (ĐN) là hiện tượng (HT) có tính phổ quát trong ngôn ngữ, nó bao gồm: ĐÂ và ĐN trong từ, ĐÂ và ĐN trong ngữ, ĐÂ và ĐN trong câu. Trong đó, ĐÂ và ĐN trong từ là HT phổ biến nhất. Với tư cách là trung tâm của HTĐÂ và HTĐN, từ ĐÂ và từ ĐN đã được bàn đến từ khá sớm. Tuy vậy, cho tới nay, HT này vẫn còn nhiều bất đồng trong giới nghiên cứu. Những công trình khảo sát về từ ĐÂ và từ ĐN cho thấy HT này đã được tiếp cận từ nhiều hướng và mỗi hướng tiếp cận đều cho ta những phát hiện khác nhau. Ngay trong một hướng tiếp cận thì những đặc điểm, những khía cạnh liên quan đến từ ĐÂ và từ ĐN cũng được nhìn nhận không hoàn toàn giống nhau giữa các tác giả.
    Trong giới Việt ngữ học, rất nhiều nhà nghiên cứu dựa trên các quan niệm, đường hướng tiếp cận và mức độ khác nhau đã bàn về từ ĐÂ và từ ĐN. Một số tác giả đã cố gắng xác định các tiêu chí nhận diện từ ĐÂ, từ ĐN, đề xuất các hướng miêu tả, phân loại chúng. Một số tác giả còn trình bày số liệu về các đơn vị (ĐV) ĐÂ và ĐN của họ. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào lấy từ ĐÂ, từ ĐN và từ vừa ĐÂ vừa ĐN làm đối tượng nghiên cứu chính của mình, đặc biệt là họ chưa xác lập được sự đối lập cơ bản giữa từ ĐÂCG nghĩa (từ ĐÂCG) với những từ ĐÂKG nghĩa (ĐÂngẫu nhiên). Đây là điểm mà luận án (LA) sẽ đề cập tới.
    Vấn đề từ ĐN cũng còn nhiều chỗ phải đề cập tới như: xác định rõ các loại từ ĐN, sự khác biệt giữa ĐN của một từ ĐN thông thường (giữa các nghĩa thường có quan hệ phái sinh) với ĐN giữa các từ ĐÂ (không có quan hệ phái sinh, thường chỉ có liên hệ về nghĩa). Từ những lí do này, chúng tôi xác định: đối tượng nghiên cứu chính của LA là từ ĐÂ, từ ĐN; từ ĐÂ và ĐN trong TV. Đồng thời, sẽ đối chiếu nó với vấn đề tương ứng trong tiếng Hán, một ngôn ngữ gần gũi về loại hình, nhằm tìm ra những chỗ đồng nhất và khác biệt trong 2 ngôn ngữ. Đây là những lí do để chúng chọn đề tài: Đồng âm và đa nghĩa trong tiếng Việt (đối chiếu với tiếng Hán hiện đại).
    Như trên đã nói, LA không dừng lại ở sự nghiên cứu từ ĐÂ và từ ĐN nói chung mà sẽ còn tập trung nghiên cứu từ ĐÂ và ĐN trong loại từ ĐÂCG và ĐÂKG của TV. Nghiên cứu những đối tượng này, chúng ta một mặt sẽ làm rõ được đặc điểm của từ ĐÂ, từ ĐN trong TV, mặt khác cũng làm rõ được vị trí, vai trò và đặc điểm của từ ĐÂCG, từ vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG và ĐÂKG của TV. Từ đó làm rõ được những đồng nhất và khác biệt cũng như thấy được những điểm giao thoa giữa hai HT này. LA cũng sẽ đối chiếu từ ĐÂ, từ ĐN, từ ĐÂ và ĐN trong TV với từ ĐÂ, từ ĐN, từ ĐÂ và ĐN trong THHĐ để tìm ra những điểm tương đồng và dị biệt trong hai ngôn ngữ.
    2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
    2.1 Ở Việt Nam, trước 1945, HTĐÂ, ĐN của TV đã gián tiếp được đề cập tới trong một số tự vị do chính người Việt Nam biên soạn nhằm chuẩn hóa chính tả, chữ viết (chữ quốc ngữ) nhưng chưa được soi rọi dưới góc độ lí luận. Chẳng hạn:
    Năm 1895, có Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của [13 ]. Đây là cuốn tự điển tường giải đầu tiên do người Việt biên soạn, là nguồn tài liệu quý về từ vựng ngữ nghĩa TV những năm cuối thế kỉ XIX. Theo Lê Quang Thiêm [131, tr.50-52] thì: “Trong một mức độ nhất định, tác giả Đại Nam quấc âm tự vị đã phân biệt được các đề mục ĐÂ (Lê Quang Thiêm gọi là ĐÂ ngữ nghĩa). Khảo sát công trình này chúng tôi còn nhận thấy: tác giả công trình còn bỏ sót nhiều ĐVĐÂ được tạo ra từ quá trình phân li ngữ nghĩa như trường hợp của các ĐV bạc, đài
    Năm 1925, ở Sài Gòn, Nguyễn Văn Mai [91] là người đầu tiên đề cập tới HTĐÂ của TV với việc xuất bản ĐÂ tự vị. Công trình này thu thập “những chữ khó viết hoặc những chữ ĐÂ cùng những chữ không nhằm ĐÂ mà phải viết dấu hỏi hay dấu ngã, hoặc viết d hay g ở trước, c hay là t, có g hay là không có g ở sau”. Khảo sát công trình này chúng tôi thấy: cấu tạo của ĐÂ tự vị gồm hai phần (1) phần thu thập những “chữ” ĐÂ với SL lên tới 1779 ĐV, (2)Phần phụ thêm thu thập những ĐV mà theo tác giả là sẽ có vấn đề về chính tả, những ĐV gốc Ấn Âu không được thu thập và giải thích trong công trình này. Mặc dù tác giả không hiển ngôn thế nào là ĐÂ song qua cách giải thích, sắp xếp của tác giả, ta vẫn có thể thấy được. Đó là những ĐV có âm đọc giống nhau, có nghĩa khác nhau và là những ĐV đơn tiết. Do hạn chế về thời đại nên ĐÂ tự vị của Nguyễn Văn Mai mới chỉ thống kê được một SL rất nhỏ các ĐVĐÂ của TV, chưa xử lí thỏa đáng các vấn đề của HTĐÂ trong TV, ngữ liệu mới chỉ dừng lại trong ngôn ngữ sinh hoạt và trong văn ngôn tiếng Hán song bước đầu cũng đã gợi mở ra một số vấn đề lí luận liên quan đến HTĐÂ của TV như: HTĐÂ giữa từ thuần Việt với từ gốc Hán, giữa từ địa phương với từ toàn dân, vấn đề các ĐVĐÂ đơn tiết. Đó là những đóng góp không thể phủ nhận.
    Năm 1931, có thêm sự góp mặt của Việt Nam tự điển [63]. So với Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của, Việt Nam tự điển đã chú trọng tới việc phân biệt các ĐVĐÂ và các ĐVĐN, các ĐVĐÂ đều được phân tách và giải thích khá rõ ràng. Nếu là ĐÂ Hán Việt thì còn dẫn cả chữ Hán để phân biệt. Nghĩa của các ĐVĐN được phân biệt bằng kí số Ả Rập 1, 2, 3 , sau mỗi nghĩa đều có ví dụ minh họa. Các ĐV ĐÂCG được xếp liền nhau và phân biệt với nhau bằng kí số La Mã. Sau cùng là việc liệt kê những kết hợp có chứa mục từ đó. Chẳng hạn, loạt ĐÂ có âm đọc là A được giải thích và sắp xếp như sau:
    A. I. Đồ làm ruộng để cắt rạ ở ruộng chiêm, Nam-Kỳ gọi là cái trang, cái gạc: Rèn một lưỡi a bằng ba lưỡi hái. Cắt rạ thì dùng bằng a, quét nhà thì dùng bằng chổi.
    II. Cắt rạ bằng cái a: Ruộng đã gặt rồi cầm cái a đi a rạ. ( )
    Việt Nam tự điển đã phân biệt rõ từ ĐÂ và hình vị ĐÂ. Tuy vậy, công trình này vẫn còn bỏ sót những HTĐÂ khác mà thời ấy chắc chắn đã có như HTĐÂ giữa những ĐV thuần Việt với những ĐV có nguồn gốc Ấn Âu
    Năm 1932, đáng chú ý là công trình Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh [01]. Đây là một bộ TĐ có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam. Khảo sát vấn đề thu thập, giải thích, phân loại các ĐVĐÂ và ĐN của Hán Việt từ điển chúng tôi thấy: Hán Việt từ điển đã rất coi trọng vấn đề thu thập, giải thích và phân biệt, xử lí các ĐVĐÂ Hán và Hán -Việt. Cách xử lí của ông như sau: đầu tiên, tác giả liệt kê tất cả các ĐVĐÂ có trong mục từ đó, tiếp theo là việc liệt kê các kết hợp song tiết có chứa các ĐVĐÂ đó cùng lời giải nghĩa về các ĐV này. Chẳng hạn: mục từ có âm đọc là DAO được ông phân tách thành 07 mục từ nhỏ như sau:
    Dao 摇Lay động.
    Dao 遥Xa.
    Dao 瑶Một thứ ngọc tốt; quý báu; sáng sủa trong sạch.
    Dao 谣Câu hát không thành chương khúc; lời nói bằng không đặt ra.
    Dao愮Lo buồn không tỏ cùng ai được.
    Dao 徭Xch. Dao dịch.
    Dao猺Tên một dân-tộc ở miền núi thượng-du Bắc-kỳ và nhiều tỉnh phía tây-nam nước tàu (Hán Việt từ điển, tr. 197-198)
    Năm 1939, có quan điểm của Trà Ngân Lê Ngọc Vượng [94]. HTĐÂ, ĐN được tác giả bàn đến trong phần Những nguyên tắc chung (tr.29) và trong phần Lược khảo về từ chương (tr.139). Theo tác giả thì: “Đ nghĩa là đọc giống nhau. Những TV – Nam cùng một âm như: nước chè – Nước Việt Nam –Nước cờ là những tiếng Đ”. Và “Đ tất phải khác nghĩa”.
    Năm 1940, có quan điểm của Trần Trọng Kim, Bùi Kỉ, Phạm Duy Khiêm trong Việt Nam văn phạm [70]. Trong 18 chương của Việt Nam văn phạm thì trong chương I Những điều khái lược (tr.18-19) và ở mục Lời tựa (tr. VIII, XI) là những chỗ thể hiện rõ quan điểm của họ về từ ĐÂ và ĐN. Theo họ, “tiếng ĐÂ là những tiếng viết giống nhau và đọc đồng một âm như nhau, nhưng cái nghĩa thì khác mà không có liên – lạc gì với nhau cả. Ví như một tiếngnước là nói một xứ có vua quan cai trị; một tiếng nước khác là nói chất lỏng ở sông ở biển. Một tiếng năm là nói khoảng thời gian có mười – hai tháng; một tiếng năm khác là nói số đếm sau số bốn” (Việt Nam văn phạm, tr.18).
    Họ còn bàn về nguồn gốc của từ ĐÂ và nhược điểm của chữ Quốc ngữ: “những tiếng ĐÂ ấy nhiều nhất là những tiếng gốc ở chữ nho mà ra” , họ nêu ví dụ: Chữ minhsáng thì viết chữ 明, chữ minhtối thì viết chữ 冥, chữ minhmờ - mịt bát - ngát thì viết chữ 瞑, chữ minhthề thì viết chữ盟, chữminhghi, khắc thì viết chữ铭, chữ minhkêu (nói về chim) thì viết chữ 鸣”.Theo họ thì “những chữ ấy viết bằng chữ nho là sáu chữ khác nhau, mà viết bằng quốc - ngữ thì tiếng nào cũng như nhau cả. Song ta phải biết phân – biệt rằng đó là sáu tiếng minh có sáu nghĩa riêng, chứ không phải là một tiếng minh mà có sáu nghĩa .” (Việt Nam văn phạm; tr.19).
    Trong Lời tựa, họ đưa ra nhận xét: “Chữ quốc – ngữ rất tiện – lợi là nhờ có năm cái dấu giọng có thể phiên – dịch đúng hết thảy các âm. Chỉ hiềm vì các âm tuy đúng, song khi gặp những tiếng đồng – âm thì viết giống nhau cả, thành ra


    6. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
    Căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ đặt ra, LA được sắp xếp thành các phần sau: phần chính văn có dung lượng 181 trang gồm phần Dẫn nhập, Kết luận và bốn chương nội dung; phần còn lại Danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung các phần của chính văn được tóm tắt như sau:
    Phần Dẫn nhập có dung lượng 37 trang trình bày Lí do chọn đề tài và đối tượng nghiên cứu (mục §1), Lịch sử vấn đề (mục §2), Nhiệm vụ của LA (mục §3), Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu (mục §4), Những đóng góp của LA (mục §5), Bố cục LA (mục §6).
    Chương 1 với tiêu đề “Những vấn đề lí luận” có dung lượng 32 trang nêu những vấn đề lí luận chung làm nền tảng cho việc tìm hiểu HTĐÂ và ĐN nói chung, HTĐÂ và ĐN trong TV và THHĐ nói riêng. Cụ thể là: Từ và cấu trúc nghĩa từ (mục §1.1.), HT chuyển loại của từ (mục §1.2.), Vai trò của chữ viết trong việc nghiên cứu HTĐÂ và HTĐN (mục §1.3.), Khái niệm ĐÂ, ĐN và từ ĐÂĐN (mục §1.4.), Về danh xưng từ ĐÂ và ĐN (mục §1.5.), Tiêu chí xác định các ĐVĐÂ, ĐN và từ ĐÂ ĐN (mục §1.6.), Giới hạn của các ĐVĐÂ, ĐN (mục §1.7.), Vấn đề phân loại các ĐV ĐÂ, ĐN và từ ĐÂĐN (mục §1.8.), Vị trí của từ ĐÂCG trong tổng thể từ ĐÂTV (mục §1.9.), Nhận diện các ĐVĐÂ, ĐN trong TĐ (mục §1.10.), Tiểu kết (mục §1.11.).
    Chương 2 với tiêu đề “HTĐÂ trong TV đối chiếu với THHĐ” là một trong ba phần trọng tâm của LA có dung lượng 36 trang gồm các nội dung chính sau đây: (1) Trình bày số liệu về các ĐVĐÂ trong TĐTV 2006 (tổng số loạt và tổng số ĐVĐÂ, tỷ lệ ĐÂ); phân loại và mô tả chi tiết các HTĐÂ của TV thông qua 04 tiêu chí: nguồn gốc, từ loại, từ góc độ các ĐV ngôn ngữ, SLÂT tham gia cấu tạo và quan hệ ngữ nghĩa trong nội bộ từ (mục §2.1 và các tiểu mục 2.1.1., 2.1.2.). (2) Trình bày các giải pháp phân loại các ĐVĐÂ trong tiếng Hán của các nhà nghiên cứu Hán ngữ từ các tiêu chí hình – âm – nghĩavà từ SLÂT tham gia cấu tạo cũng như đi vào mô tả một HTĐÂ đặc biệt chỉ thấy trong THHĐ (ĐÂ phái sinh sau 儿化); trình bày số liệu thống kê ở diện rộng các ĐVĐÂ trong THHĐ từ 02 tiêu chí: từ loại và SLÂT tham gia cấu tạo. (3) Đối chiếu từ ĐÂCG trong TV với từ ĐÂCG trong THHĐ, nhận xét về HTĐÂ trong tiếng Hán và HTĐÂ trong TV (mục § 2.2 và các tiểu mục 2.2.1; 2.2.2 và 2.2.3.), (4) Tiểu kết.
    Chương 3 với tiêu đề “HTĐN trong TV đối chiếu với THHĐ” cũng là một trọng tâm của LA có dung lượng 46 trang gồm các nội dung chính sau đây: (1) Thống kê số liệu các ĐVĐN trong TĐTV 2006, (2) Phân loại và mô tả chi tiết các HTĐN của TV thông qua 03 tiêu chí: từ loại, SLÂT tham gia cấu tạo và DLN. Dựa vào đó làm cơ sở để xác định những HTĐN thường gặp, ĐN ít gặp hay những trường hợp ĐN cơ bản, không cơ bản của TV (mục §3.1 và các tiểu mục 3.1.1., 3.1.2.), (3) Trình bày quan niệm cũng như các giải pháp phân loại các ĐV ĐN trong tiếng Hán của các nhà nghiên cứu Hán ngữ; trình bày số liệu thống kê ở diện rộng các ĐVĐN trong THHĐ của chúng tôi trong TĐTHHĐ 2005 từ 03 tiêu chí: từ loại, SLÂT tham gia cấu tạo và DLN, (4) Đối chiếu và nhận xét về HTĐN trong tiếng Hán với HTĐN trong TV ở diện rộng cũng như ở diện hẹp của hai khối ngữ liệu (qua số liệu của TĐ và qua một số phạm trù phổ quát) với mục đích để làm nổi bật những tương đồng cũng như những khác biệt giữa hai ngôn ngữ, qua đó tìm thêm luận cứ cho việc biện giải HTĐN trong TV (mục §3.2 và các tiểu mục 3.2.1, 3.2.2, 3.2.3), (5) Tiểu kết.
    Chương 4 với tiêu đề “Từ ĐÂ và ĐN trong TV đối chiếu với THHĐ” có dung lượng 20 trang gồm các nội dung chính sau đây: (1) Trình bày số liệu về các ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong khu vực ĐÂCG và khác gốc ngữ nghĩa, (2) Phân loại các ĐV vừa ĐÂ vừa ĐN trong TV, tiếng Hán. (3) Mô tả nguồn gốc, đặc điểm cấu tạo, dung lượng ngữ nghĩa, quan hệ ngữ nghĩa của những ĐV này trong TV, tiếng Hán. (4) Đối chiếu từ ĐÂ và ĐN cùng gốc nghĩa và khác gốc nghĩa trong TV với từ ĐÂ và ĐN cùng gốc nghĩa và khác gốc nghĩa trong THHĐ (trọng tâm là đối chiếu từ ĐÂ và ĐN cùng gốc nghĩa trong 2 ngôn ngữ), nhằm chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt về vấn đề này trong hai ngôn ngữ.


    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    TIẾNG VIỆT :
    1. Đào Duy Anh (1932), Hán Việt từ điển, Nxb Tràng Thi.
    2. Đào Duy Anh (1978), "Để hiểu nghĩa, cần biết từ nguyên", Ngôn ngữ số 04.
    3. Diệp Quang Ban (1999), Ngữ pháp tiếng Việt, Tập 1, 2. Nxb GD.
    4. Diệp Quang Ban, Hoàng văn Thung (1991), Ngữ pháp tiếng Việt, Tập 1 Nxb GD.
    5. Lê Biên (1999), Từ loại tiếng Việt hiện đại, Nxb GD.
    6. Phan Văn Các (2001), Từ điển Hán Việt, Nxb Tp HCM.
    7. Nguyễn Tài Cẩn (1975a), Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb KHXH.
    8. Nguyễn Tài Cẩn (1975b), Ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng - Từ ghép - Đoản ngữ), Nxb ĐH và THCN, Hà Nội.
    9. Nguyễn Tài Cẩn (1998), “Thử phân kì lịch sử 12 thế kỉ của tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 10.
    10. Nguyễn Tài Cẩn (2000), Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Nxb ĐHQG Hà Nội.
    11. Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1983), Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt, Tập 1, Nxb GD, Hà Nội.
    12. Nguyễn Hồng Cổn (2003), "Về vấn đề phân định từ loại trong tiếng Việt", Ngôn ngữ số 02.
    13. Huỳnh Tịnh Của (1895), Việt Nam quấc âm tự vị, Quyển I,II, Sài Gòn.
    14. Hoàng Cao Cương (2004), "Về chữ Quốc Ngữ hiện nay", Ngôn ngữ số 01.
    15. Chafe.W.L (1998), Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, Nxb GD.
    16. Đỗ Hữu Châu (1962), Giáo trình Việt ngữ (từ hội học), Nxb GD.
    17. Đỗ Hữu Châu (1969), “Một số ý kiến về việc giải thích nghĩa của từ trong từ điển tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 02.
    18. Đỗ Hữu Châu (1979), "Cách xử lý những hiện tượng trung gian trong ngôn ngữ ", Ngôn ngữ số 01.
    19. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb GD, Hà Nội.
    20. Đỗ Hữu Châu (1983), "Ngữ nghĩa học hệ thống và ngữ nghĩa học hoạt động", Ngôn ngữ số 01.
    21. Đỗ Hữu Châu (1985), “Từ và tiếng” (thảo luận về bài báo Về cương vị ngôn ngữ học của tiếng), Ngôn ngữ số 03.
    22. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb GD.
    23. Đỗ Hữu Châu (1999), Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb ĐHQG Hà Nội.
    24. Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học tiếng Việt, Nxb ĐHQG Hà Nội.
    25. Nguyễn Văn Chiến (1992), Ngôn ngữ học đối chiếu và đối chiếu các ngôn ngữ Đông Nam Á.
    26. Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê (1963), Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam, Nxb Đại học Huế.
    27. Trương Chính (2001), Giải thích các từ gần âm, gần nghĩa dễ nhầm lẫn, Nxb GD.
    28. Đỗ Quang Chính (1972), Lịch sử chữ quốc ngữ (1620-1659), Tủ sách ra khơi Sài Gòn.
    29. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (1997), Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt, Nxb GD.
    30. Mai Ngọc Chừ (2001), Các ngôn ngữ phương Đông, Nxb ĐHQG Hà Nội.
    31. Nguyễn Đức Dân (1999), Lô gích và tiếng Việt, Nxb GD.
    32. Nguyễn Đức Dân, Trần Thị Ngọc Lang (1992), Câu sai và câu mơ hồ, Nxb GD.
    33. Nguyễn Đức Dân (2005), “Những giới từ không gian: sự chuyển nghĩa và ẩn dụ”, Ngôn ngữ số 09.
    34. Trần Trí Dõi (2007), Giáo trình lịch sử tiếng Việt sơ thảo, Nxb ĐHQG Hà Nội.
    35. Hoàng Dũng, Bùi Mạnh Hùng (2007), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb ĐHSP.
    36. Hữu Đạt, Trần Trí Dõi, Đào Thanh Lan (1998), Cơ sở tiếng Việt, Nxb GD.
    37. ĐHQG Tp HCM, (2001), Mấy vấn đề về tiếng Việt hiện đại, Nxb ĐHQG Tp HCM.
    38. Phạm Hữu Điển (1933), Trùng -Âm - Dị -Tự (in lần 2 năm 1949), Sài Gòn.
    39. Lê Đông, Nguyễn Văn Hiệp (2003), “Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ học”, Ngôn ngữ số 07-08.
    40. Đinh Văn Đức (1978), “Về một cách hiểu ý nghĩa các từ loại trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 02.
    41. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), Nxb ĐH và THCN.
    42. Lê Văn Đức (chủ biên) 1962, Việt Nam tự điển, Quyển thượng, quyển hạ, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.
    43. Nguyễn Thiện Giáp (1971), "Một vài suy nghĩ về hiện tượng đồng âm trong tiếng Việt", Ngôn ngữ số 04.
    44. Nguyễn Thiện Giáp (1985), Từ vựng học tiếng Việt, Hà Nội, Nxb ĐH và THCN.
    45. Nguyễn Thiện Giáp (1996), Từ và nhận diện từ tiếng Việt, Nxb GD.
    46. Nguyễn Thiện Giáp (1996), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb GD.
    47. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Từ vựng học tiếng Việt, Nxb GD.
    48. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Các phương pháp nghiên cứu ngôn ngữ, Nxb GD.
    49. Cao Xuân Hạo (1985), “Về cương vị ngôn ngữ học của tiếng” Ngôn ngữ số 01.
    50. Cao Xuân Hạo (1991a), “Mấy tiền đề cho việc phân tích cú pháp”, Ngôn ngữ số 02.
    51. Cao Xuân Hạo (1991b), Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Quyển I, Nxb KHXH.
    52. Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt - Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, Nxb GD.
    53. Cao Xuân Hạo (2001a), “Hai phép tính cộngtrừ trong ngôn ngữ học”, Ngôn ngữ số 10.
    54. Cao Xuân Hạo (2001b), Âm vị học và tuyến tính, Nxb ĐHQG Tp HCM.
    55. Cao Xuân Hạo (2002), “Bắt buộc và tùy ý về hai cách biểu đạt nghĩa trong ngôn ngữ”, Ngôn ngữ số 09.
    56. Cao Xuân Hạo (chủ biên) (2005), Nguyễn Văn Bằng, Hoàng Xuân Tâm, Bùi Tất Tươm, Ngữ pháp chức năng tiếng Việt, quyển 2 - Ngữ đoạn và từ loại, Nxb GD.
    57. Hoàng Văn Hành (chủ biên) (1998), Từ tiếng Việt, Nxb KHXH.
    58. Hoàng Văn Hành, Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Thị Trung Thành (2001), Từ điển đồng âm tiếng Việt, Nxb Tp HCM.
    59. Honey. P.J (1965), Vài nhận xét về văn phạm Việt Nam, Trong: "Tham luận về từ pháp và cú pháp Việt ngữ”, Hoàn Vũ xuất bản, Sài Gòn.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...