Luận Văn Đổi mới tư duy về kế hoạch vốn kinh doanh trong doanh nghiệp

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Linh Napie, 1/12/13.

  1. Linh Napie

    Linh Napie New Member

    Bài viết:
    4,057
    Được thích:
    5
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Phần mở đầu
    Xu hướng hiện nay ở các nước trên thế giới đều tiến tới áp dụng cơ chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt của nền kinh tế thị trường, đòi hỏi phải có được cho mình một đường lối kinh doanh hay nói đúng hơn là phải có một kế hoạch- chiến lược đúng đắn của riêng mình. Vì vậy, đổi mới tư duy kế hoạch trong doanh nghiệp là yêu cầu tất yếu hiện nay trong mọi doanh nghiệp, bởi kế hoạch hoá nằm trong các khâu quan trọng nhất của quy trình quản lý. Kế hoạch hoá bao gồm quá trình xây dựng kế hoạch và tổ chức triển khai thực hiện. Mục đích của việc xây dựng kế hoạch là nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động của doanh nghiệp được tiến hành bình thường, đảm bảo sử dụng hợp lý và tiết kiệm 3 yếu tố của quá trình sản xuất: Vốn, lao động và kỹ thuật công nghệ; đảm bảo giảm bớt sản phẩm dở dang, bán thành phẩm; rút ngắn chu kỳ sản xuất và cuối cùng là nhằm đảm bảo hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu của kế hoạch sản xuất. Trước đây, ở nước ta áp dụng cơ chế kế hoạch hoá tập trung tức là các chỉ tiêu đều do cấp trên chỉ đạo xuống nên thường không sát với thực tế. Tuy nhiên, hiện nay nền kinh tế nước ta đang theo mô hình kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nên công tác kế hoạch hoá vì thế cũng có sự chuyển đổi sang kế hoạch hoá mang tính chất định hướng là chủ yếu.
    Vốn là mạch máu của doanh nghiệp, mọi hoạt động kinh tế đều liên quan mật thiết đến nguồn vốn của doanh nghiệp dưới dạng tiền tệ hoặc hàng hoá. Không có vốn doanh nghiệp sẽ không thực hiện được hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Do đó, việc hiểu về vốn kinh doanh, phân loại vốn kinh doanh để từ đó có kế hoạch quản lý vốn kinh doanh hiệu quả, hợp lý và an toàn là yêu cầu đặt ra đối với tất cả các doanh nghiệp. Tuỳ theo từng quy mô, lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp đặt ra cho mình kế hoạch quản lý vốn kinh doanh phù hợp với từng thời kỳ đặt ra.
    Với những lý do ở trên chúng tôi đã quyết định chọn đề tài ‘’ Đổi mới tư duy về kế hoạch vốn kinh doanh trong doanh nghiệp’’ để có thể quản lý và sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả hơn cho doanh nghiệp mình.

    Phần nội dung
    I. Cơ sở lý luận về kế hoạch hoá.
    Các nước có nền kinh tế thị trường phát triển mạnh và các nước đang phát triển đều có lịch sử kế hoạch hoá khá lâu đời. Với mỗi cơ chế kế hoạch hoá khác nhau tuỳ theo điều kiện của mỗi nước đã đem lại những thành công đáng kể trong phát triển kinh tế. Để thấy được rõ vai trò to lớn của kế hoạch hoá chúng ta phải đi sâu nghiên cứu những lý luận chung về kế hoạch hoá.
    1. Khái niệm chung về kế hoạch hoá
    Kế hoạch hoá là hoạt động của con người trên cơ sở vận dụng các quy luật tự nhiên, xã hội, kinh tế để thực hiện các mục tiêu. kế hoạch hoá là một quá trình ra quyết định cho phép xây dựng một hình ảnh mong muốn về trạng thái tương lai của doanh nghiệp và quá trình tổ chức triển khai thực hiện mong muốn đó.
    [​IMG] Mỗi một quy trình kế hoạch hoá đều phải tuân theo một quy trình nhất định sau đây:



    Quy trình kế hoạch hoá gồm 4 bước: Xác định mục tiêu, thực hiện, điều chỉnh, kiểm tra. Các bước được thực hiện, một cách tuần tự, trong đó việc xác định mục tiêu có vai trò quan trọng bởi vì nó được thực hiện theo định kỳ, còn các bước khác thì mang tính thường xuyên.
    Như vậy, kế hoạch hoá không chỉ là lập kế hoạch mà còn là quá trình tổ chức, thực hiện và theo dõi, đánh giá kết quả. Lập kế hoạch là lựa chọn một trong những phương án hoạt động cho tương lai của toàn bộ hay bộ phận của doanh nghiệp. Còn tổ chức được thể hiện bằng hệ thống các chính sách áp dụng trong các thời kỳ kế hoạch nhằm đạt được các mục tiêu đặt ra một cách có hiệu quả cao nhất. Kế hoạch hoá thể hiện ý đồ của chủ thể về sự phát triển trong tương lai của đối tượng quản lý và các giải pháp để thực hiện. Nó xác định xem một quá trình phải làm gì? làm như thế nào?khi nào làm và ai sẽ làm?.
    2. Sự cần thiết của kế hoạch hoá.
    Vai trò của nhà quản lý doanh nghiệp đó là định hướng cho sự phát triển của doanh nghiệp. Mỗi sự định hướng của nhà quản lý có thể đưa doanh nghiệp phát triển đi lên cũng có thể đưa đến con đường phá sản.Khi các định hướng đã được đưa ra thì việc thực hiện cũng đóng vai trò không kém phần quan trọng. Việc điều hành được cụ thể hoá bằng các quyết định của nhà quản lý do kế hoạch hoá không phải lúc nào cũng được thực hiện hết vì thị trường là không dự tính trước được, luôn thay đổi nên các quyết định là sự cụ thể hoá, chi tiết kế hoạch. Các quyết định tập trung giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện kế hoạch, kế hoạch chỉ có tác dụng làm định hướng.
    3. Phân loại kế hoạch.
    Trước đây kế hoạch được phân làm hai loại: Kế hoạch dài hạn và kế hoạch ngắn hạn. Việc phân loại kế hoạch như trên là do thị trường trước đây ít còn biến đổi, công nghệ có chu kỳ dài nên ảnh hưởng ít hơn đến kế hoạch đặt ra.
    Hiện nay: Kế hoạch được phân làm hai loại: Kế hoạch chiến lược ( dài hạn) và kế hoạch tác nghiệp ( ngắn hạn). Việc phân loại này là do thị trường ngày nay luôn biến đổi, khoa học công nghệ phát triển cao nên chu kỳ ngắn hơn, việc dự đoán tương lai trở nên khó khăn nên việc lập ra kế hoạch cho thời gian dài sẽ không còn chính xác nữa.
    4. Quy trình lập kế hoạch trong doanh nghiệp.

    [TABLE="align: left"]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]







    Các kế hoạch tác nghiệp:

    [TABLE="align: left"]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][/TD]
    [TD][​IMG][/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]








    Qua nghiên cứu lý luận kế hoạch hoá, chúng ta đã thấy rõ tầm quan trọng của việc lập kế hoạch hoá trong doanh nghiệp. Sau đây chúng ta sẽ đi sâu nghiên cứu kế hoạch về vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
    II. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp
    Vốn là mạch máu của một doanh nghiệp. Một ý tưởng dù hay đến đâu cũng cần phải có tiền để biến ý tưởng đó thành lợi nhuận. Cần phải có đủ vốn để tổ chức một doanh nghiệp, trang trải toàn bộ chi phí phát sinh và tiến kinh doanh cho đến khi đạt được mục tiêu mong muốn, không ngừng phát triển doanh nghiệp trong tương lai.
    1. Khái niệm và vai trò của vốn kinh doanh .
    Tiền tệ ra đời là một trong những phát minh vĩ đại của loài người, mọi sự vận động của sản xuất và tiêu dùng đều có liên quan mật thiết với sự vận động của tiền tệ và có sự tác động qua lại.
    a, Khái niệm vốn kinh doanh.
    Vốn là một phần thu nhập quốc dân dưới dạng tài sản vật chất và tài sản tài chính được các cá nhân, các tổ chức, các doanh nghiệp bỏ ra để tiến hành sản xuất -kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá lợi ích.
    b, Vai trò của vốn kinh doanh.
    soO wn _ P- .0pt;border-right:solid windowtext 1.0pt; mso-border-top-alt:solid windowtext .5pt;mso-border-left-alt:solid windowtext .5pt; mso-border-alt:solid windowtext .5pt;padding:0in 5.4pt 0in 5.4pt'>79,529
    3,9
    Mỹ
    98.665
    656,655
    32,4
    Các nước khác
    111.400
    363,005
    17,9
    (Nguồn: Bộ Thuỷ sản năm 2002)
    Qua bảng trên ta thấy thị trường Mỹ có rất nhiều triển vọng. Đây là cơ hội lớn cho các nhà sản xuất thuỷ sản Việt Nam trong những năm tới.

    PHẦN II
    XUNG QUANH VỤ KIỆN CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ TÔM
    TRÊN ĐẤT MỸ

    Ngày nay toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Trong tiến trình đó vn đã chủ động tham gia hội nhập kinh tế quốc tế bằng việc ký kết các hoạt động song phương, đa phương về tham gia vào các tổ chức quốc tế nhằm tranh thủ những lợi ích mà toàn cầu hoá mang lại. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng giúp cho vn đạt được nhiều thành tựu trong hoạt động xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ nói riêng. Tuy nhiên, trong quá trình tự do hoá thương mại, việc hàng rào thuế quan ngày càng cắt giảm thì các biện pháp phi thuế quan ngày càng tăng điển hình là thuế chống bán phá giá. Vì vậy, tình trạng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam bị các nước nhập khẩu vận dụng thuế chống bán phá giá chủ yếu là: mì chính, tỏi, giầy dép, tôm cá. Tính đến năm 2001 Việt Nam đã gặp phải các vụ kiện chống bán phá giá như sau:
    [TABLE="width: 612"]
    [TR]
    [TD]Năm
    [/TD]
    [TD]Đối tác thương mại
    [/TD]
    [TD]Mặt hàng
    [/TD]
    [TD]Phán quyết cuối cùng
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]1994
    [/TD]
    [TD]Columbia
    [/TD]
    [TD]Gạo
    [/TD]
    [TD]Không đánh thuế mặc dù bán phá giá mức 9,07% vì không gây tổn hại cho nước này
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]1998
    [/TD]
    [TD]Liên minh châu Âu
    [/TD]
    [TD]Mì chính
    [/TD]
    [TD]Đánh thuế chống bán phá giá mức 16,8%
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Giầy dép
    [/TD]
    [TD]Không đánh thuế vì thị phần nhỏ hơn so với Trung Quốc, Inđônêxia và Thái Lan
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]200
    [/TD]
    [TD]Ba Lan
    [/TD]
    [TD]Bật lửa
    [/TD]
    [TD]Đánh thuế chống phá giá mức 0,09% EURO/chiếc
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]2001
    [/TD]
    [TD]Canada
    [/TD]
    [TD]Tỏi
    [/TD]
    [TD]Đánh thuế chống phá giá 1,48 CAD/kg
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...