Thạc Sĩ Đổi mới sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh trong điều kiện nước ta hiện nay

Thảo luận trong 'Các Môn Khác' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đổi mới sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh trong điều kiện nước ta hiện nayMỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề tàiĐại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: "Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc” [41, tr.4]. Trong lịch sử vẻ vang của mình, Đảng luôn giữ vai trò lãnh đạo toàn bộ sự nghiệp cách mạng và xã hội Việt Nam.

    Kể từ ngày thành lập đến nay, với lý tưởng và mục tiêu cao đẹp, bằng trí tuệ, tài năng và phẩm chất chính trị của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn dân tộc Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nhìn nhận khách quan và sâu sắc, ai ai cũng thấy: “Đó là thắng lợi oanh liệt của cuộc kháng chiến chống xâm lược, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đó là thắng lợi của công cuộc đổi mới, đưa đến những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm cho thế và lực nước ta mạnh hơn bao giờ hết” [92].

    Nói đến thắng lợi của Đảng Cộng sản Việt Nam cũng có nghĩa là nói đến thắng lợi của các tổ chức đảng, của các đơn vị, của các tỉnh uỷ, thành uỷ . trong cả nước. Các tỉnh uỷ, thành uỷ (gọi chung là tỉnh uỷ) là một cấp uỷ Đảng, đồng thời là “nhịp nối” không thể thiếu trong guồng máy của Đảng. Một mặt, nó bảo đảm cho đường lối, chính sách của Trung ương đến với cơ sở, đi vào quần chúng; mặt khác, nó kịp thời tổng kết thực tiễn phong phú của từng địa phương để khẳng định hoặc bổ sung đường lối, chủ trương của Đảng. Thực tiễn quá trình lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng nước ta suốt hơn 70 năm qua đã chứng minh sinh động cho nhận định này.

    Trong giai đoạn vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, trên cơ sở đường lối chung, các tỉnh uỷ ở hai miền Nam - Bắc đã có những vận dụng linh hoạt, sáng tạo, chỉ đạo thực hiện các phong trào ở địa phương có hiệu quả. Các cấp uỷ ở miền Bắc đã lãnh đạo nhân dân xây dựng các mô hình sản xuất độc đáo, nhiều điển hình tiên tiến; các cấp uỷ ở miền Nam đã có những chủ trương và hành động táo bạo, góp phần hình thành đường lối chiến tranh nhân dân đầy sáng tạo. Trong thời kỳ hoà bình xây dựng đất nước, đưa nước ta tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa, các tỉnh uỷ đã đề ra những chủ trương đúng đắn, sáng tạo, làm cho sản xuất "bung ra" nhằm phát triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển đường lối đổi mới của Đảng.

    Dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng và xuất phát từ thực tế địa phương, các tỉnh uỷ đã lãnh đạo toàn xã hội vượt qua những trở ngại, liên tục phấn đấu vươn lên, đạt đựơc nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương. Riêng trong lĩnh vực xây dựng và phát triển cơ quan nhà nước, các tỉnh uỷ đã từng bước nhận thức đúng vị trí, vai trò của mình trong quan hệ đối với nhà nước; xác định những nhiệm vụ chính trị ngắn hạn và dài hạn để định hướng hoạt động; có những chủ trương, biện pháp cụ thể củng cố bộ máy tổ chức, bố trí cán bộ có năng lực công tác cơ quan nhà nước; thực hiện công tác kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật và thiết lập các quan hệ công tác ngày càng hợp lý hơn.

    Mặc dù đã đạt được những tiến bộ rất quan trọng, nhưng sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh vẫn còn nhiều bất cập, nếu không nói là còn chưa bảo đảm tính khoa học và tính hiệu quả. Nhiều khâu trong quá trình lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh còn trong tình trạng chồng chéo, lấn sân nhau; và điều đó làm triệt tiêu nhiều động lực, gây cản trở sự phát triển của xã hội. Thực tiễn lãnh đạo của các tỉnh ủy trong thời gian qua đã bộc lộ những mặt hạn chế chủ yếu sau đây:

    Thứ nhất, sự “song trùng” của hai cơ quan quyền lực.

    Hai hệ thống bộ máy quyền lực (Nhà nước) và "siêu" quyền lực (Đảng) này cùng giải quyết các nội dung của một mục tiêu. Đối với đơn vị hành chính gần cơ sở và cấp cơ sở, sự phân định này bị xoá nhoà. Có chăng, cơ quan nhà nước thì ban hành các quyết định hành chính, còn cơ quan đảng thêm được nhiệm vụ công tác đảng và đoàn thể.

    Thứ hai, chưa xác định rõ phạm vi chức trách, thẩm quyền của cấp uỷ địa phương.

    Do hiểu sự lãnh đạo của cấp ủy một cách chung chung, đồng nhất sự lãnh đạo của cấp uỷ với lãnh đạo Đảng, không ít cấp ủy địa phương “sáng tạo” nhiều chủ trương theo ý muốn chủ quan của mình, buộc chính quyền “vận dụng”.

    Thứ ba, tỉnh uỷ bao biện, "lấn sân" cơ quan nhà nước, xem cơ quan nhà nước là công cụ "hợp thức hoá" các quyết định của cấp uỷ.

    Do ngộ nhận về thẩm quyền tối cao của cấp uỷ trong việc ban hành các quyết định, bầu cử Hội đồng nhân dân, thiết lập các cơ quan nhà nước, chọn cử nhân sự . mà nhiều người nghĩ rằng, cơ quan nhà nước là tổ chức chỉ để thực hiện các quyết sách của cấp uỷ. Sự lệch lạc về nhận thức này là một trong những nguyên nhân làm cho Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân rơi vào sự vụ, hình thức, kém năng động.

    Thứ tư, tỉnh uỷ bỏ mất vai trò lãnh đạo, dẫn dắt của mình.

    Nhiều lúc, nhiều nơi cấp uỷ đã mặc nhận, thậm chí đồng tình để Uỷ ban nhân dân thực hiện những công việc, những chính sách trái với quy định chung, lợi dụng danh nghĩa “vận dụng sáng tạo” để làm những việc phi pháp chỉ vì lợi ích cục bộ địa phương.

    Thứ năm, sự lãnh đạo của tỉnh uỷ bị từ chối.

    Có thể do những động cơ khác nhau hoặc sự xung đột trong phong cách, tính cách của các nhân vật chủ chốt cấp uỷ và cơ quan nhà nước, chủ thể lãnh đạo cơ quan nhà nước muốn khước từ sự lãnh đạo của cấp uỷ.

    Trong những vấn đề nêu trên, tình trạng chồng lấn về quyền lực được biểu hiện dưới dạng lấn sân là hiện tượng có tính phổ biến mà nguyên nhân sâu xa của nó là do nhận thức quyền lực cấp uỷ là “thống soái” ở mỗi địa phương.

    Từ rất sớm, Lênin đã cảnh báo hiện tượng: "Giữa đảng và các cơ quan Xô-Viết, hiện đã có những quan hệ không đúng”. Nhưng, nó chẳng những không được ngăn chặn, mà còn xảy ra khá phổ biến ở các mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa giai đoạn sau đó. Trước khi Đảng cộng sản Liên Xô bị giải tán, sự việc ấy vẫn diễn biến ở mức độ trầm trọng. Một nhà lãnh đạo của Đảng này vào thời gian ấy đã chỉ rõ:

    Kết quả là thường dẫn đến chỗ làm giảm tinh thần trách nhiệm của người lãnh đạo các cơ quan Nhà nước, dẫn đến chỗ muốn đẩy trách nhiệm này sang các cơ quan Đảng, còn ở các cơ quan này lại tự dưng sinh ra các yếu tố của cách giải quyết công việc theo quan điểm bản vị [17, tr.37].

    Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng từng mắc phải lỗi lầm đó và đã gây nên hậu quả nặng nề trong đời sống xã hội. Sau này nhìn lại, nhân vật lãnh đạo đầy uy tín của Đảng nhận thấy:

    Hiện tượng quyền lực quá tập trung lại thêm khẩu hiệu lãnh đạo nhất nguyên hoá của Đảng không thích hợp nữa, quyền lực tập trung vào mấy cá nhân lãnh đạo, vào Bí thư thứ nhất, lãnh đạo nhất nguyên hoá trở thành cá nhân lãnh đạo như thế tất nhiên tạo nên chế độ quan liêu, phạm đủ loại sai lầm [126, tr.94].

    Đối với nước ta, cách đây hơn 30 năm, đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn đã lưu ý: "Phải khắc phục tình trạng lẫn lộn chức năng của Đảng với chức năng của Nhà nước”. Và mặc dù sau đó, hầu như tất cả các Văn kiện Đại hội của Đảng đều có phê phán và nêu phương hướng, giải pháp khắc phục hiện tượng trên, nhưng chưa có chuyển biến căn bản. Rõ ràng, sự việc này đã ẩn chứa những vấn đề lý luận và thực tiễn cần được lý giải.

    Sự chồng chéo, trùng lấp giữa lãnh đạo của tỉnh uỷ và cơ quan quản lý nhà nước trên các lĩnh vực làm cho bộ máy cồng kềnh, giảm hiệu lực, kém hiệu quả. Những hạn chế trong sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước sẽ gây trở ngại lớn hơn trong điều kiện nước ta hiện nay. Nước ta đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; gia nhập ngày càng sâu hơn nền kinh tế quốc tế trong một "sân chơi" chung; công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng nền kinh tế tri thức; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Chỉ riêng nội dung xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng đủ để xem xét lại cách thức lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước. Đặc trưng cơ bản nhất của một nhà nước pháp quyền là tính tối cao của pháp luật, quyền lực thống nhất, sự thứ bậc trong quan hệ giữa các cơ quan hành chính. Và điều này đặt ra câu hỏi về vị trí, thẩm quyền của cấp uỷ trong tình hình mới.

    Thực trạng những năm qua cho thấy, sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước đã có những dấu hiệu không ổn; trong hiện tại và tương lai, để thực hiện mục tiêu cách mạng trọng đại là xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước cần phải được đổi mới. Những nghiên cứu về Đảng cầm quyền ở nước ta đều nhận thấy rằng:

    Là Đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân, thực hiện quản lý, điều hành mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội chủ yếu bằng Hiến pháp và pháp luật, đòi hỏi phương thức cầm quyền và phương thức lãnh đạo của Đảng phải được đổi mới cho phù hợp [112, tr.11].

    Sự chậm trễ trong nghiên cứu và tiến hành đổi mới mạnh mẽ sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh sẽ làm cho tỉnh uỷ rơi vào hoạt động sự vụ, vụn vặt, kém hiệu lực và hiệu quả và nguy cơ lớn hơn, tỉnh uỷ đứng ngoài lề sự phát triển, hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước tuột dần khỏi "tầm tay" của tỉnh uỷ. Từ những vấn đề đã nêu, việc nghiên cứu sự lãnh đạo của tỉnh ủy đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh là một đòi hỏi cấp bách, không những có ý nghĩa cho thực tiễn, mà còn có giá trị về mặt lý luận, vừa phục vụ nhiệm vụ chính trị trước mắt, vừa đặt cơ sở cho việc nghiên cứu khoa học sau này.

    2. Tình hình nghiên cứu đề tài

    Đảng lãnh đạo Nhà nước mà chủ yếu là phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Đảng (hoặc cấp uỷ từng cấp) lãnh đạo trên các lĩnh vực cụ thể như: kinh tế, hành chính, tư pháp . là những mảng đề tài lớn được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu. Điều đó được thể hiện rõ ở một khối lượng công trình đồ sộ, phong phú, với nhiều khía cạnh khác nhau:

    - Về lý luận Đảng cầm quyền:

    Có các tác phẩm: “Mấy vấn đề về Đảng cầm quyền” của Lê Duẩn, Nxb ST Hà Nội - 1981; “Đảng Cộng sản Liên Xô trong hệ thống chính trị của xã hội Xô Viết”, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội - 1986; “Đảng trong hệ thống chính trị của xã hội xã hội chủ nghĩa”, Nxb APN, Mátxcơva-1987; “Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị” Nxb Sự thật, Hà Nội - 1991; “Đảng cầm quyền trong điều kiện hiện nay”, tài liệu tham khảo phục vụ lãnh đạo, nghiên cứu và giảng dạy (Đề tài KX05.09 - Hà Nội 1993); “Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng lãnh đạo Nhà nước” của Học viện Hành chính Quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội - 1996; “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng cầm quyền” (Tạp chí Cộng sản số 28 tháng 10 năm 2003); “Bản chất của Đảng cầm quyền” của Hoàng Chí Bảo (Tạp chí Cộng sản số 3, tháng 02 năm 2004); “Xây dựng Đảng cầm quyền: Một số kinh nghiệm từ thực tiễn đổi mới ở Việt Nam” của Nguyễn Phú Trọng (Tạp chí Cộng sản số 5-2004); "Xây dựng Đảng cầm quyền - kinh nghiệm của Việt Nam, kinh nghiệm của Trung Quốc", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2004; “Về sự cầm quyền của Đảng” của Nhị Lê (Tạp chí Cộng sản số 16 tháng 8 năm 2006); “Đảng Cộng sản cầm quyền lãnh đạo nhà nước và xã hội trong sự nghiệp đổi mới - một số vấn đề đặt ra” của Hoàng Chí Bảo (Tạp chí Cộng sản số 17 tháng 9 năm 2006).

    - Về vai trò lãnh đạo của Đảng:

    Có các tác phẩm: “Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản” của V.Lênin và Stalin, Nxb ST, Hà Nội - 1972; “Đảng trong sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa xã hội” Nxb ST, Hà Nội- 1990; "Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới” của Phân viện Đà Nẵng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Nxb Đà Nẵng - 2000; “Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước” của Nguyễn Phú Trọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2002; “Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước” của Nhị Lệ (Tạp chí Cộng sản số 30, tháng 10 năm 2002); “Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc đổi mới đất nước” Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội - 2003; “Tìm hiểu vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam” do Đinh Xuân Lý (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội - 2005.

    - Về thể chế Đảng lãnh đạo Nhà nước:

    Cải cách thể chế chính trị”, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội - 1996. “Thể chế Đảng Đảng cầm quyền - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do Đặng Đình Tân (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội – 2005. “Về xây dựng thể chế Đảng lãnh đạo Nhà nước hiện nay” của Lê Minh Quân (Tạp chí Cộng sản số 13, tháng 7 năm 2004).

    - Về phương thức lãnh đạo của Đảng:

    Về phương thức lãnh đạo của Đảng”, Tạp chí Xây dựng Đảng, số chuyên đề, 12 - 1995; “Phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước” của Trần Đình Huỳnh, Nxb Hà Nội - 2001; “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền cấp quận” của Vũ Hồng Khanh (Tạp chí Cộng sản số 23, tháng 8 năm 2002); “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước” của Lê Đức Bình và Phạm Ngọc Quang (Tạp chí Cộng sản số 19, tháng 7 năm 2003); “Đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ở Đảng bộ Sơn La” của Nguyễn Văn Thạo (Tạp chí Xây dựng Đảng số 6 - 2004); “Phương thức lãnh đạo của Đảng với nhà nước và xã hội” của Nguyễn Khánh và Phạm Ngọc Quang (Tạp chí Cộng sản số 9 tháng 5-2004); “Châu Thành (Bến Tre) đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ” của Nguyễn Văn Huỳnh (Tạp chí Xây dựng Đảng số 10 - 2004); “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” của Thang Văn Phúc (Tạp chí Cộng sản số 9/5-2006); “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước” của Nguyễn Khánh (Báo Nhân dân số: 18620 – 03/8/2006); “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Tỉnh uỷ với Uỷ ban nhân dân tỉnh từ thực tiễn Tiền Giang” của Xuân Tế - Ngọc Chung (Tạp chí Xây dựng Đảng tháng 9-2006); “Đổi mới và tiếp tục hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng trước yêu cầu phát triển đất nước” của Trương Tấn Sang (Tạp chí Cộng sản số 24 tháng 12 – 2006).

    - Về sự lãnh đạo của Đảng ở một cấp hoặc một lĩnh vực cụ thể:

    Có các tác phẩm “Đổi mới quan hệ giữa Đảng, chính quyền và đoàn thể nhân dân cấp phường trong điều kiện kinh tế thị trường” của Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội – 1995; “Sự lãnh đạo kinh tế của tỉnh uỷ"(đề tài cấp Bộ) của Lưu Văn Sùng, Hà Nội – 1999; “Hoàn thiện nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác Tư pháp” của Trần Đại Hưng (Tạp chí Cộng sản số 21, tháng 11 năm 2004); “Đảng lãnh đạo xây dựng nền hành chính nhà nước Việt Nam trong sạch, dân chủ và hiện đại” của Nguyễn Khánh (Tạp chí Cộng sản số 20, tháng 10 năm 2006).

    Dĩ nhiên, sự phân chia trên đây chỉ là tương đối. Và mặc dù đứng với các góc độ và phạm vi đề cập khác nhau, các tác giả đều có sự tương đồng về những điểm chính sau đây:

    Thứ nhất, lý luận về Đảng lãnh đạo:

    Một số chuyên luận đề cập sâu về khái niệm, quan niệm Đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo và quản lý. Một số tác giả làm rõ khái niệm về Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền, trong đó các tác giả có sự thống nhất khá cao về nội dung Đảng lãnh đạo.

    Thứ hai, trong điều kiện có chính quyền, Đảng lãnh đạo phải thông qua các cơ quan nhà nước:

    Nội dung này được nhiều tác giả bàn luận và có chung quan điểm. Tiêu biểu của luận điểm này được ghi nhận trong tác phẩm “Mấy vấn đề về Đảng cầm quyền”. Cụ thể là:

    Nhiệm vụ của Đảng khi chưa có chính quyền là giác ngộ, tổ chức quần chúng đấu tranh lật đổ ách thống trị của giai cấp bóc lột để giành lấy chính quyền. Khi đã có chính quyền thì nhiệm vụ của Đảng là xây dựng và giữ vững chính quyền, triệt để sử dụng và phát huy quyền lực của chính quyền để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, trấn áp các lực lượng chống đối [23, tr.99].

    Thứ ba, thành tựu của sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo:

    Các tác giả chứng minh thành tựu đổi mới toàn diện của đất nước do Đảng lãnh đạo (tác phẩm: “Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình đổi mới đất nước”, “Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới”, “Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc đổi mới đất nước” .).

    Thứ tư, tính tất yếu về sự đổi mới của Đảng:

    Các tác giả đã làm rõ thực trạng, yêu cầu của đất nước, của thế giới để chỉ ra tính tất yếu của việc Đảng phải đổi mới.

    Tinh thần cơ bản là Đảng tự đổi mới để đổi mới xã hội, Đảng phải đổi mới để củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng (tác phẩm “Đảng trong sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa xã hội” .).

    Thứ năm, việc đổi mới phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản:

    Các tác giả đều kiến nghị việc đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước phải tôn trọng các nguyên tắc như bảo đảm sự ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tiến hành thận trọng.

    Thứ sáu, Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng với hình thức và phương pháp mới:

    Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước là một trong những chủ đề lớn được nhiều người đề cập. Kể từ khi nguyên Tổng Bí thư Lê Duẩn nêu lên vào đầu thập kỷ 70 của thế kỷ thứ XX, việc bàn luận chủ đề này tái bắt đầu từ những năm 90 được kéo dài mãi đến nay và nó là một nội dung lớn của Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X). Các tác giả đều nhất trí rằng, Đảng lãnh đạo Nhà nước phải thông qua đường lối, chính sách; sự thuyết phục của tổ chức đảng và gương mẫu của cán bộ, đảng viên; việc kiểm tra, giám sát của Đảng, của nhân dân đối với cơ quan, công chức nhà nước và thực hiện thẩm quyền đối với công tác cán bộ.

    Dù tực tiếp hay gián tiếp tiếp, các tác phẩm nêu trên đã có những gợi ý tốt cho Luận án. Tuy nhiên, dưới góc độ chính trị học, chuyên đề về sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh - một cấp có tính chiến lược này - còn thiếu vắng. Luận án này cố gắng kế thừa những giá trị quý báu đã có, tiếp tục đi sâu nghiên cứu những vấn đề cần được làm sáng tỏ trong điều kiện nước ta hiện nay.

    3. Mục đích và nhiệm vụ của luận án

    3.1. Mục đích

    Trên cơ sở lý luận về Đảng lãnh đạo, cụ thể là Đảng lãnh đạo Nhà nước, Luận án phân tích thực trạng về sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh, nêu lên phương hướng và giải pháp đổi mới sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh trong tình hình hiện nay nhằm tăng cường vai trò và hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với các cơ quan nhà nước và toàn xã hội.

    3.2. Nhiệm vụ

    Để thực hiện được mục đích trên, luận án phải giải quyết các nhiệm vụ:

    - Làm rõ những vấn đề lý luận về Đảng lãnh đạo Nhà nước và thực chất, nội dung, yêu cầu của sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với chính quyền cấp tỉnh.

    - Khảo sát, phân tích thực trạng, làm rõ mặt tốt và hạn chế cũng như những vấn đề bức xúc đặt ra trong sự lãnh đạo của cấp uỷ tỉnh đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh.

    - Nêu phương hướng, giải pháp đổi mới sự lãnh đạo của cấp uỷ đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh trong điều kiện nước ta hiện nay.

    4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

    4.1. Cơ sở lý luận

    Luận văn được thực hiện trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đảng cầm quyền, về quyền lực chính trị và thực thi quyền lực chính trị, mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước.

    4.2. Phương pháp nghiên cứu

    - Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp hệ thống để xác định vị trí và mối tương quan giữa các chủ thể trong hệ thống chính trị, nhất là mối quan hệ cơ bản giữa Đảng và Nhà nước, Trung ương với địa phương.

    - Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phương pháp lịch sử - logic; phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp điều tra - phỏng vấn; gắn lý luận với thực tiễn.

    5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

    Đề tài đi sâu nghiên cứu sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh trong giai đoạn từ đổi mới đến nay, dẫn chứng tư liệu từ thực tiễn của tỉnh Đồng Tháp và các tỉnh Kiên Giang, Bạc Liêu, Cần Thơ, Vĩnh Long, Long An, Tiền Giang, Bình Dương, Nghệ An, thành phố Hải Phòng. Mặc dù luận án phân tích một số tỉnh, nhưng phạm vi luận án đề cập đến sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước của cả nước nói chung. Tuy mỗi tỉnh có những đặc điểm khác nhau, nhưng nội dung và thẩm quyền của cấp tỉnh là thống nhất. Và do đó, kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa cho các tỉnh, thành và các cấp hành chính trong toàn quốc.

    6. Đóng góp mới về khoa học của luận án

    Luận án đã hệ thống hoá, phân tích các khái niệm lãnh đạo, đảng lãnh đạo, lý luận về đảng cầm quyền; phản ánh và phân tích thực trạng sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước; góp phần luận giải rõ thêm lý luận về sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với các cơ quan nhà nước cấp tỉnh; đưa ra ý kiến mới về nội dung, mô hình lãnh đạo toàn diện nhưng không can thiệp trực tiếp, xây dựng uy tín lãnh đạo, khắc phục tập trung quyền lực tuyệt đối và dự báo các xu hướng lớn cần tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị ở địa phương.

    7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

    - Luận án góp phần hình thành nội dung, mô hình, phương thức cụ thể hơn về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước ở địa phương và giúp cho tỉnh ủy tiếp cận đầy đủ tính khoa học trong lãnh đạo, quản lý. Luận án có giá trị không chỉ cho cấp uỷ địa phương trực thuộc Trung ương, mà còn cho các cấp uỷ theo địa giới hành chính nói chung.

    - Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là tài liệu cho việc nghiên cứu, biên soạn tài liệu giảng dạy, đào tạo cán bộ trong hệ thống chính trị nước ta.

    8. Kết cấu của luận án

    Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 3 chương, 9 tiết.




    MỞ ĐẦU 1

    1. Tính cấp thiết của đề tài 1

    Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC VÀ CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH 13

    1.1. KHÁI NIỆM LÃNH ĐẠO, ĐẢNG LÃNH ĐẠO VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÀ NƯỚC 13

    1.1.1. Khái niệm lãnh đạo, đảng lãnh đạo. 13

    1.1.2. Quan điểm Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về đảng lãnh đạo nhà nước. 16

    1.2. VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH UỶ ĐỐI VỚI CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH 27

    1.2.1. Vị trí, vai trò của đảng bộ, của tỉnh uỷ trong hệ thống chính trị ở địa phương 27

    1.2.2. Nội dung và phương thức lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh. 32

    1.3. KINH NGHIỆM ĐẢNG LÃNH ĐẠO Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆC SẮP ĐẶT ĐỊA GIỚI HÀNH CHÍNH TỈNH, XÂY DỰNG BỘ MÁY CHÍNH QUYỀN CẤP TỈNH TRONG LỊCH SỬ Ở NUỚC TA 35

    1.3.1. Đảng lãnh đạo ở các nước tư bản chủ nghĩa. 35

    1.3.2. Đảng lãnh đạo ở các nước xã hội chủ nghĩa. 39

    1.3.3. Kinh nghiệm về việc sắp đặt địa giới hành chính tỉnh và xây dựng bộ máy chính quyền cấp tỉnh trong lịch sử ở nước ta. 44

    Kết luận chương 1. 48

    Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH UỶ ĐỐI VỚI CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH HIỆN NAY 50

    2.1. NHỮNG THÀNH TỰU TRONG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH ỦY ĐỐI VỚI CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH 50

    2.1.1. Thành tựu về nội dung lãnh đạo. 50

    2.1.2. Hoạt động đổi mới phương thức lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước 65

    2.2. NHỮNG BẤT CẬP, HẠN CHẾ TRONG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH ỦY ĐỐI VỚI CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH 76

    2.2.1. Về nội dung lãnh đạo. 76

    2.2.2. Về phương thức lãnh đạo. 84

    2.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 90

    2.3.1. Quyền lực của các cơ quan nhà nước có nguy cơ bị vô hiệu. 90

    2.3.2. Tổ chức đảng trong bộ máy nhà nước ít tác dụng. 92

    2.3.3. Trật tự nền hành chính bị suy yếu. 93

    2.3.4. Có môi trường nảy sinh những vụ việc sai phạm pháp luật 93

    2.3.5. Tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị khó thích ứng với tiến trình hội nhập quốc tế. 94

    Kết luận chương 2. 97

    Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI 98

    SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH UỶ ĐỐI VỚI CƠ QUAN NHÀ NƯỚC 98

    CẤP TỈNH TRONG ĐIỀU KIỆN NƯỚC TA HIỆN NAY 98

    3.1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA TỈNH UỶ ĐỐI VỚI CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH 98

    3.2. PHƯƠNG HƯỚNG ĐỔI MỚI 104

    3.3. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN 107

    3.3.1. Nhóm giải pháp tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức. 107

    3.3.2. Nhóm giải pháp về đổi mới nội dung lãnh đạo. 111

    3.3.3. Nhóm giải pháp về đổi mới phương thức lãnh đạo. 125

    3.3.4. Nhóm giải pháp về xây dựng khung pháp lý tạo cơ chế đổi mới sự lãnh đạo của tỉnh uỷ đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh. 130

    Kết luận chương 3. 131

    KẾT LUẬN 133

    DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 137

    LIÊN QUAN LUẬN ÁN CỦA TÁC GIẢ 137

    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 138

    PHỤC LỤC 148

    Phụ lục 1 PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO TỈNH 148

    Phụ lục 2 BẢNG TỔNG HỢP PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN CỦA CÁN BỘ LÃNH ĐẠO TỈNH ĐỒNG THÁP 150

    Phụ lục 3 CÂU HỎI PHỎNG VẤN BÍ THƯ TỈNH UỶ ĐỒNG THÁP CÂU HỎI PHỎNG VẤN PHÓ BÍ THƯ ĐẢNG ĐOÀN HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN 153

    TỈNH ĐỒNG THÁP 154

    Phụ lục 4 TỐC ĐỘ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 155

    Phụ lục 5 Trích chỉ thị số 19-CT/TU, ngày 06 tháng 9 năm 1985 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Đồng Tháp về việc: 156

    "cấm nấu, bán ruợu lậu và uống rượu say". 156

    Phụ lục 6 Chương trình hoạt động của. 159

    Ban Chấp hành Đảng bộ Tỉnh, (khoá VII) 159

    Phụ lục 7 BẢNG THỐNG KÊ 168

    Số lần, nội dung các cuộc họp BCS đảng UBND Tỉnh. 168



     

    Các file đính kèm:

Đang tải...