Chuyên Đề Đổi mới linh hồn tư tưởng Hồ Chí Minh

Thảo luận trong 'TT Hồ Chí Minh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đổi mới linh hồn tư tưởng Hồ Chí Minh

    Với chủ trương đổi mới, Đại hội lần thứ VI của Đảng ta đã có cống hiến to lớn, mang ý nghĩa lịch sử đối với Đảng, với dân, với nước. Đại hội tuyên bố: "Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn".

    Đây quả là những chữ vàng sẽ mãi mãi khắc sâu trong tâm khảm của mỗi người dân Việt Nam. Thực tế cho thấy, mỗi khi Đảng ta trở về với tư tưởng Hồ Chí Minh trong những hoàn cảnh cách mạng gặp khó khăn, đất nước lại như từ chỗ tối bước sang chỗ sáng, từ ngõ cụt bước ra con đường lớn rộng thênh thang. Và công lao bất hủ của Đại hội VI là đã sáng suốt trở về với tư tưởng đổi mới của Hồ Chí Minh, đề xướng chủ trương đổi mới để Đảng ta lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đưa đất nước thoát khỏi tình trạng trì trệ, bế tắc và khủng hoảng kinh tế - xã hội đã xuất hiện từ cuối những năm 70, ngay sau khi tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa theo nếp cũ, bằng những biện pháp hành chính, mệnh lệnh, chủ quan duy ý chí nhằm thực hiện việc quá độ trực tiếp lên CHXH trên phạm vi cả nước.

    Nhìn vào quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta sẽ thấy rất rõ đó là một quá trình đổi mới liên tục trong nhận thức tư tưởng, cũng như trong hoạt động thực tiễn của Người. Có thể nói, Hồ Chí Minh là con người đổi mới, là một người đổi mới bẩm sinh, một thiên tài đổi mới. Ngay từ năm 1927, trong Đường cách mệnh, Người đã viết: "Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tất". Danh từ "đổi mới" là danh từ của Hồ Chí Minh, là danh từ mà Người đã nêu ra từ năm 1949 trong bài Dân vận bất hủ: "Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân". Bốn năm sau, trong bài nói chuyện trong buổi khai mạc lớp chỉnh huấn cán bộ Đảng, dân, chính ở cơ quan trung ương, ngày 6/2/1953, Người đã đưa ra luận điểm bất diệt:

    “Xã hội bây giờ ngày mót phát triển. Tư tưởng hành động cũng phát triển. Nên cứ giữ lấy cái kẹp giấy cũ không thay đổi là không đi đến đâu cả” (chúng tôi nhấn mạnh - N.H).

    Và, nhiệm vụ đổi mới căn bản và toàn diện, "chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ tốt tươi" là nhiệm vụ mà Hồ Chí Minh đã xác định trong Di chúc của Người. Có thể nói, đổi mới chính là linh hồn của tư tưởng Hồ Chí Minh. Kết luận này được rút ra từ những sự kiện lịch sử.

    Ngay từ lúc mới 13 tuổi, khi lần đầu được tiếp xúc với những từ Tự do - Bình đẳng - Bác ái trong tiếng Pháp, Người nảy ra ý nghĩ mới lạ, ý nghĩ mà lịch sử về sau đã chứng minh tính chất phi thường của nó - "muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy". Ý nghĩ này thể hiện tính ham hiểu biết, muốn tìm hiểu sự vật đến nơi đến chốn của Hồ Chí Minh. Đến khi 15 tuổi, Người đã nuôi chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào. Người tham gia công tác bí mật, làm liên lạc. Người khâm phục những nhà yêu nước tiền bối Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Chu Trinh và Phan Bội Châu, nhưng thấy rằng phải có cách làm khác với cách làm của các cụ. Trong khi các trí thức và thanh niên có tinh thần yêu nước đua nhau theo phái Đông du sang Nhật thì Người lại chọn con đường sang nước Pháp và các nước khác để xem họ làm như thế nào rồi trở về giúp đồng bào.

    Trước khi đi theo Quốc tế cộng sản, Người chưa biết chiến lược, sách lược là gì, không rõ CHXH và chủ nghĩa cộng sản khác nhau thế nào, cũng chưa đọc một tác phẩm nào của Lênin, vậy mà khi cần phải có quyết định trong việc lựa chọn giữa Quốc tế II và Quốc tế III, Người đã nhạy bén chỉ dựa vào một tiêu chí duy nhất là Quốc tế nào ủng hộ các dân tộc thuộc địa, để đưa ra quyết định đúng đắn.

    Trong khi chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế cộng sản đặc biệt nhấn mạnh đấu tranh giai cấp chống địa chủ, tư bản và coi việc chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cải lương, chủ nghĩa dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, trong khi Quốc tế cộng sản có quan điểm cho rằng công cuộc giải phóng thuộc địa chỉ có thể thực hiện sau khi giai cấp vô sản ở chính quốc giành thắng lợi trong cách mạng vô sản, thì Người đã không như thường lệ, chỉ giản đơn phụ họa và chứng minh cho những quan điểm đó, mà đã khảng khái và dũng cảm nêu lên những quan điểm mới, khác hẳn. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Người đã đưa ra chủ trương tiến hành khởi nghĩa vũ trang ở các nước Đông Dương. Ở đây, một là, Hồ Chí Minh đã xác định rõ con đường đấu tranh vũ trang mang tính quần chúng để giải phóng dân tộc, chứ không chờ đến sau khi "giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các nước tư bản
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...