Luận Văn Đổi mới cơ chế hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 9/10/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Giới thiệu chung

    Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến sự nghiệp phát triển các lĩnh vực văn hoá, thể thao và du lịch, đã ban hành nhiều chủ trương, đường lối và văn bản quy phạm pháp luật để định hướng cho ngành văn hoá, thể thao và du lịch hoạt động và phát triển, gồm: Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nghị quyết Hội nghị Trung ương sáu khoá X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Luật Di sản văn hoá, Luật Điện ảnh, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Thể dục, thể thao; Luật Du lịch; Pháp lệnh Quảng cáo; Pháp lệnh Thư viện
    Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách mới tạo hành lang pháp lý để ngành văn hoá, thể thao hoạt động và phát triển như: Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về đẩy mạnh xã hội hoá; Nghị định số 10/2002/NĐ-CP về chế độ tự chủ tài chính trong các đơn vị sự nghiệp; Nghị định số 43/2006/NĐ-CP về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập.
    Thủ tướng Chính phủ đã có: Quyết định số 170/2003/QĐ-TTg ngày 14/8/2003 về Chính sách ưu đãi hưởng thụ văn hoá; Quyết định số 156/2005/QĐ-TTg ngày 23/6/2005 phê duyệt Quy hoạch tổng thể hệ thống bảo tàng Việt Nam đến năm 2020; Quyết định số 271/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống thiết chế văn hoá-thông tin cơ sở đến năm 2010; Quyết định số 167/2006/QĐ-TTg ngày 14/7/2006 phê duyệt Đề án “Phát triển hoạt động văn hoá-thông tin vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2010”; Quyết định số 45/2008/QĐ-TTg ngày 28/3/2008 phê duyệt Quy hoạch phát triển Nghệ thuật biểu diễn Việt Nam đến năm 2010.
    Các đơn vị sự nghiệp ngành văn hóa, thể thao và du lịch hoạt động chủ yếu do ngân sách Nhà nước cấp, trên cơ sở kế hoạch công tác, kế hoạch tài chính thường xuyên hàng năm do cơ quan chủ quản phê duyệt. Những cơ chế, chính sách nêu trên đã tạo điều kiện cho các đơn vị sự nghiệp phát huy quyền chủ động trong việc sử dụng các nguồn tài chính, cơ sở vật chất, sắp xếp, bố trí nhân lực để thực hiện các nhiệm vụ được giao và tạo nguồn thu, tự chủ về tài chính như: tổ chức các buổi biểu diễn nghệ thuật, hoạt động thể thao ở các địa bàn khác nhau, tổ chức các dịch vụ phục vụ cho các đối tượng khách tham quan bảo tàng, di tích. Với các hoạt động nêu trên, đã tạo được nguồn thu để phát triển hoạt động và cải thiện đời sống cho cán bộ, viên chức trong đơn vị, cũng như tiết kiệm một phần cho ngân sách. Công tác xã hội hoá bước đầu ở một số lĩnh vực: biểu diễn nghệ thuật, di sản văn hoá, thể dục, thể thao và du lịch đã phát huy được tác dụng tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, thể dục, thể thao trong nước và quốc tế.
    Tuy nhiên, hoạt động sự nghiệp văn hoá, thể thao và du lịch vẫn còn một số tồn tại như:
    Cơ chế hoạt động bước đầu được đổi mới nhưng chưa thực sự được phát huy tác dụng, trong tư duy và nhận thức của nhiều đơn vị sự nghiệp công lập của ngành vẫn còn mang nặng tính bao cấp, chủ yếu dựa vào nguồn ngân sách Nhà nước cấp, chưa tự chủ trong hoạt động và thích ứng, hoà nhập với sự phát triển cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
    Cơ chế tuyển dụng còn bất cập, chính sách tiền lương và đãi ngộ đối với cán bộ, viên chức ngành chưa phù hợp, chậm đổi mới nên chưa khuyến khích đối với các tiềm năng nghệ thuật và thể thao, như: việc xếp lương lao động nghệ thuật theo thang, bảng lương chung của chế độ viên chức. Chế độ phụ cấp, bồi dưỡng luyện tập, biểu diễn đối với lao động biểu diễn nghệ thuật và vận động viên, huấn luyện viên còn thấp.
    Hoạt động văn hoá, thông tin và biểu diễn nghệ thuật thường xuyên phục vụ đột xuất nhiệm vụ chính trị theo yêu cầu của nhà nước, nhưng kinh phí hoạt động không được bổ sung kịp thời nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện.
    Nhiều chính sách chưa phù hợp với thực tế như chính sách thuế, thù lao cho diễn viên. Hoạt động gắn với chức năng, nhiệm vụ chính của các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch như: biểu diễn nghệ thuật, thư viện, bảo tàng, chiếu phim, đào tạo nghệ sĩ, diễn viên, vận động viên, tổ chức thi đấu thể thao và phục vụ phát triển trong phong trào thể dục, thể thao là những hoạt động sự nghiệp mang tính đặc thù, định hướng theo mục tiêu phục vụ chính trị, phục vụ xã hội, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa, tinh thần của nhân dân theo đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Những hoạt động này mang lại nguồn thu cho các đơn vị sự nghiệp, được các đơn vị quản lý sử dụng theo cơ chế tự chủ tài chính nhằm giảm nhẹ gánh nặng của ngân sách và phần nào cải thiện thu nhập của văn nghệ sĩ, vận động viên, huấn luyện viên, viên chức và người lao động tại các đơn vị; bản chất các khoản thu này không nhằm mục đích lợi nhuận như các hoạt động sản xuất, kinh doanh dịch vụ của các tổ chức kinh tế khác. Vì vậy việc tính thuế thu nhập doanh nghiệp đối với đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần được xem xét lại.
    Nhiều Trung tâm văn hoá của các tỉnh, thành phố đã được xây dựng có cơ ngơi phù hợp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, phần lớn trang thiết bị tại các Trung tâm văn hoá (kể cả cấp huyện, thị xã; phường, xã) sau một thời gian sử dụng đã xuống cấp hoặc lạc hậu; không có kinh phí để sửa chữa, thay thế, nhiều địa điểm hoạt động của một số Trung tâm văn hoá đang và sẽ bị chuyển đổi mục đích sử dụng; nhiều thiết chế văn hoá không được cấp đủ diện tích đất xây dựng trụ sở, khu hoạt động ngoài trời để đáp ứng những yêu cầu hoạt động sự nghiệp hoặc thu hẹp diện tích đất hoạt động của các thiết chế văn hoá, hoán đổi, chuyển vị trí các thiết chế văn hoá này ra xa khu vực trung tâm đô thị, không thuận lợi cho hoạt động, do đó việc thực hiện xã hội hoá đối với các thiết chế văn hoá gặp nhiều khó khăn và khó thực hiện.
    Công tác đào tạo lĩnh vực nghệ thuật, thể dục, thể thao là đào tạo theo năng khiếu nên quy mô của các trường không lớn. Các trường nghệ thuật đào tạo nghệ thuật đặc thù như: Múa, Xiếc, Sân khấu truyền thống, nhạc cụ dân tộc và thể thao đỉnh cao gặp khó khăn trong công tác tuyển sinh (thiếu nguồn tuyển) nên khó mở rộng quy mô đào tạo. Cùng với những khó khăn trong công tác tuyển sinh, chi phí cho đào tạo lớn trong khi ngân sách chi cho đào tạo nghệ thuật có hạn, khả năng tự chủ của nhà trường bị hạn chế nên chất lượng đào tạo đặc biệt là đối với các chuyên ngành nghệ thuật như múa, xiếc, sân khấu truyền thống bị ảnh hưởng nhiều.
    Công tác xã hội hoá đối với các hoạt động văn hoá, thể dục,thể thao tuy có một số tiến bộ nhưng hiệu quả chưa cao do một số chính sách chưa huy động được các nguồn lực xã hội như chính sách về thuế, đất đai, tín dụng chưa thực sự khuyến khích các thành phần trong xã hội tham gia.
    Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế -xã hội, nhu cầu hưởng thụ dịch vụ công của xã hội và người dân ngày càng cao và đa dạng, nhất là nhu cầu về dịch vụ giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa và thể dục thể thao Nhiều người có khả năng chi trả cao để được hưởng thụ dịch vụ công chất lượng cao theo nhu cầu (nhiều người đã cho con theo học các trường Quốc tế ở trong nước hoặc cho con theo học ở nước ngoài). Vì vậy, để đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú của các tầng lớp nhân dân, Nhà nước đã thực hiện các biện pháp để tăng cường số lượng, nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ sự nghiệp của các đơn vị công lập, đồng thời mở rộng cho mọi thành phần kinh tế ngoài Nhà nước tham gia cung cấp; trong đó, Nhà nước tiếp tục giữ vai trò chủ đạo cung cấp một số dịch vụ cơ bản, thiết yếu đối với xã hội, tập trung vào những lĩnh vực cung cấp dịch vụ công mà xã hội có nhu cầu, nhưng các đơn vị cung cấp dịch vụ công ngoài Nhà nước không cung cấp, hoặc cung cấp không đầy đủ, cung cấp cho những khu vực, vùng miền điều kiện kinh tế xã hội còn khó khăn; cung cấp cho những đối tượng chính sách, người nghèo. Để thực hiện vai trò này, Nhà nước đã tổ chức lại, đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị cung cấp dịch vụ công do Nhà nước thành lập theo hướng nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong việc sử dụng nguồn lực lao động, tài chính, tổ chức bộ máy, đồng thời xây dựng chính sách ưu đãi về tài chính như: thuế, đất, tín dụng, để thu hút các đơn vị thuộc các thành phần kinh tế khác ngoài Nhà nước tham gia cung cấp dịch vụ công. Tuy nhiên kết quả vẫn còn hạn chế.
    Vì vậy, để đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng cao của xã hội và nhân dân về số lượng và chất lượng dịch vụ công, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, thì việc đổi mới cơ chế hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập cung cấp dịch vụ công nói chung và các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, thể thao và du lịch nói riêng là phù hợp với lộ trình cải cách hành chính nhà nước và điều kiện thực tế của Việt Nam, vì vậy tôi chọn đề tài: “Đổi mới cơ chế hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch”.
    MỤC LỤC
    PHẦN MỞ ĐẦU . 2
    Chương 1. LÝ LUẬN CƠ BẢN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ ĐỔI MỚI CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP 10
    1.1 Lý luận chung về đổi mới cơ chế hoạt động đối với các đơn vị sự nghiệp công lập 10
    1.2 Kinh nghiệm quốc tế .14
    Chương 2. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG TRONG CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP TRỰC THUỘC BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH . 22
    2.1 Giới thiệu về Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch. 22
    2.2 Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch .34
    2.3 Thực trạng cơ chế hoạt động trong các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch: 35
    2.4. Thực trạng cơ chế hoạt động hiện hành của sự nghiệp ngành văn hoá, thể thao và du lịch 37
    2.5. Về thực hiện Nghị định số 43/2006/NĐ-CP. 39
    Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM ĐỔI MỚI CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG ĐỐI VỚI CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP TRỰC THUỘC BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH . 56
    3.1. Quan điểm 56
    3.2. Nguyên tắc. 57
    3.3. Đổi mới cơ chế hoạt động. 58
    3.4 Điều kiện để thực hiện các giải pháp. 68
    Kết luận và Kiến nghị . 91
    Tài liệu tham khảo
    Phụ lục

     

    Các file đính kèm:

Đang tải...