Thạc Sĩ Đổi mới cơ cấu vốn của các doanh nghiệp nhà nước Việt nam hiện nay

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 7/12/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    Lời cam đoan 1
    Mục lục 2
    Danh mục Hình và Đồ thị 3
    Danh mục các bảng . 4
    Danh mục các chữ viết tắt 5
    Mở đầu 6
    Chương 1 Những vấn đề lý luận cơ bản về cơ cấu vốn của doanh nghiệp 11
    1.1. Cơ cấu vốn của doanh nghiệp 11
    1.2. Nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu vốn 45
    1.3. Mô hình kinh tế lượng ứng dụng trong xây dựng cơ cấu vốn trên
    thế giới 55
    Chương 2 Thực trạng cơ cấu vốn của doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam hiện
    nay . 69
    2.1. Tổng quan về doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) Việt Nam . 69
    2.2. Thực trạng cơ cấu vốn doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam hiện nay 78
    2.3. Đánh giá thực trạng cơ cấu vốn của doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam
    hiện nay 100
    2.4. Kinh nghiệm đổi mới cơ cấu vốn các doanh nghiệp Nhà nước Trung Quốc114
    Chương 3 Giải pháp đổi mới cơ cấu vốn của doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam
    hiện nay 125
    3.1. Định hướng phát triển và quan điểm đổi mới cơ cấu vốn của các doanh
    nghiệp Nhà nước Việt Nam trong thời gian tới . 125
    3.2. Giải pháp đổi mới cơ cấu vốn của doanh nghiệp nhà nước Việt nam hiện
    nay: 131
    3.3. Điều kiện thực hiện giải pháp đổi mới cơ cấu vốn các doanh nghiệp nhà
    nước Việt nam hiện nay . 192
    Kết luận 202
    Danh mục tài liệu tham khảo 204



    6
    MỞ ĐẦU
    Ở Việt nam hơn 20 năm qua, cùng với công cuộc đổi mới kinh tế là quá
    trình đổi mới các doanh nghiệp nhà nước. Hàng ngàn doanh nghiệp nhà nước
    đã được chuyển đổi hình thức sở hữu, được quản lý tài chính theo một cơ chế
    phù hợp hơn. Nhờ đó, các doanh nghiệp nhà nước đã phần nào khẳng định
    được vị trí quan trọng trong việc tạo thu nhập và điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
    Song, hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước còn thấp là một thực tế
    không thể phủ nhận. Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng
    trên là sự bất hợp lý trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp nhà nước. Bởi vậy, nếu
    không tiếp tục cải cách, nếu không chú trọng thiết lập một cơ cấu vốn hợp lý,
    thì các doanh nghiệp nhà nước Việt nam khó có thể phát triển ổn định, càng
    không thể đứng vững trong cạnhh tranh khi tiến trình hội nhập quốc tế và khu
    vực đang diễn ra.
    Bên cạnh đó, những vấn đề mang tính lý thuyết về việc hình thành một
    phương pháp tiếp cận khoa học để xây dựng cơ cấu vốn cho các doanh nghiệp
    nhà nước Việt nam hiện vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn
    diện, khiến cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản lý tài chính
    doanh nghiệp nhà nước còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong nghiên cứu
    và ứng dụng.
    Chính vì vậy, đề tài nghiên cứu: ”Đổi mới cơ cấu vốn của các doanh
    nghiệp nhà nước Việt nam hiện nay
    ” được lựa chọn để đáp ứng yêu cầu lý
    luận và thực tiễn đó.
    TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
    Trên thế giới, có khá nhiều công trình nghiên cứu về cơ cấu vốn và
    một số mô hình kinh tế lượng đã được xây dựng để nghiên cứu các nhân tố
    ảnh hưởng đến cơ cấu vốn của các doanh nghiệp. Hầu hết các nghiên cứu


    7
    hiện tại đều nghiên cứu cơ cấu vốn dưới giác độ quản lý. Titman và Wessels
    (1988) đã cho rằng chỉ có “tính duy nhất” (được đo lường bởi Chi phí nghiên
    cứu triển khai/Tổng doanh thu, chi phí bán hàng cao, và nhân công với chi
    phí thấp) và thu nhập là các nhân tố quan trọng. Năm 1984, Harris đã chứng
    minh bằng lý thuyết và thực tiễn về tỷ suất lợi nhuận trung bình tăng sẽ kéo
    theo rủi ro tăng trong mô hình định giá tài sản taì chính nhiều thời kỳ và cuối
    cùng dẫn đến sự tăng lên của chi phí vốn. Điều này có thể giải thích cho việc
    ưa thích tài trợ bằng nợ hơn là vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp.
    Federick H.deB.Harris, một giáo sư của Đại học Wake Forest, Bang
    Winston Salem, Mỹ đã đề xuất mô hình nghiên cứu mối liên hệ giữa cấu
    trúc tài sản, mức đảm nhiệm doanh thu và cơ cấu vốn. Williamson (1988,
    1991) cho rằng doanh nghiệp có tỷ trọng tài sản cố định trên tổng tài sản
    càng cao thì càng phải sử dụng nhiều vốn chủ sở hữu. Gentry (1994) đã so
    sánh mức độ đòn bẩy và tỷ lệ chi trả cổ tức của công ty liên danh của Mỹ
    trong ngành công nghiệp khai thác dầu mỏ và khi đốt. Ông đã phát hiện ra
    rằng, các công ty liên danh, mặc dù không phải chịu thuế thu nhập doanh
    nghiệp, có tỷ lệ chi trả cổ tức cao hơn và sử dụng nợ ít hơn. Điều này cũng
    phù hợp với các nghiên cứu về tác động của thuế đến sự lựa chọn cơ cấu
    vốn của các công ty Mỹ.
    Rajan và Zingales (1955) đã đưa ra một nghiên cứu rất điển hình về cơ
    cấu vốn của doanh nghiệp ở các nước OECD và đã phát hiện ra mối quan hệ
    ngược chiều rất chặt chẽ giữa giá trị sổ sách của cổ phiếu với đòn bẩy tài
    chính. Giống như Rajan và Zingales, Barclay, Smith và Watts (1955) cũng
    đã phát hiện ra rằng tỷ lệ nợ có quan hệ ngược chiều với tỷ lệ giá thị trường
    và giá sổ sách.
    Để bổ sung cho nghiên cứu trật tự phân hạng của M.Miller, một vài lý
    thuyết đã được xây dựng dựa trên chi phí giao dịch. Ví dụ, năm 1989, Fischer đã


    8
    sử dụng mô hình quyền chọn giá và phát hiện ra chỉ một thay đổi nhỏ trong chi phí
    vốn cũng dẫn đến một thay đổi đáng kể trong cơ cấu vốn mục tiêu. Benartzi,
    Michaely và Thaler (1997) đã phát hiện ra rằng, trái ngược với những lý thuyết tối
    ưu về chi trả cổ tức, các giám đốc dường như chi trả cổ tức dựa trên cơ sở thu
    nhập trong quá khứ nhiều hơn chứ không phải là thu nhập trong tương lai.
    Baker và Wurgler (2002) đã tiến hành điều tra sự ảnh hưởng của tỷ lệ thu
    nhập trên cổ phiếu trong quá khứ. Nhưng họ chỉ quan tâm đến ảnh hưởng của
    tỷ lệ thu nhập này lên quyết định phát hành của công ty và không xem xét đến
    những thay đổi ngầm định.
    Graham năm 2003 đã tiến hành một điều tra về tác động của thuế. Reinte
    Gropp, một nhà nghiên cứu kinh tế nổi tiếng của Ngân hàng Trung ương Châu
    Âu, đã đề xuất một mô hình nghiên cứu kết hợp nhiều loại thuế của chính phủ
    Đức, năm 2002. Mô hình cũng bao gồm các loại thuế kinh doanh của chính
    quyền địa phương. Hơn nữa, mô hình cũng cho rằng phần tiết kiệm thuế theo
    Luật thuế của Đức khi các doanh nghiệp tài trợ một tỷ lệ nhất định bằng nợ sẽ
    thay đổi theo sắc thuế của từng địa phương.
    Nghiên cứu của Francis Cai và Arvin Ghosh (2003) về cơ cấu vốn, bằng
    các kiểm định thực tế đã cho thấy các doanh nghiệp có xu hướng di chuyển về
    điểm cơ cấu vốn tối ưu khi họ đã ở quá ngưỡng trung bình ngành nhanh hơn là
    khi di chuyển đến điểm tối ưu khi họ ở thấp hơn ngưỡng trung bình ngành.
    Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp không quan tâm đến việc sử dụng nợ
    nhiều hay ít khi họ ở dưới mức trung bình ngành.
    Năm 2004, Lisa A.Keister đã nghiên cứu về chiến lược tài chính của
    các doanh nghiệp trong nền kinh tế chuyển đổi, tiêu biểu là Trung Quốc, đã
    đưa ra các giả thuyết về xu thế thay đổi cơ cấu vốn của các doanh nghiệp
    nhà nước Trung quốc. Kết quả kiệm nghiệm cho thấy: trong thập kỷ đầu của
    quá trình đổi mới, các doanh nghiệp nhà nước càng giữ lại nhiều lợi nhuận


    9
    thì càng vay nợ từ bên ngoài nhiều ; việc vay nợ của các doanh nghiệp gia
    tăng cùng với sự thay đổi về điều kiện địa lý; các doanh nghiệp ở các khu
    vực phát triển vay nợ từ các ngân hàng nhiều hơn và từ các nguồn khác ít
    hơn so với các doanh nghiệp ở khu vực kém phát triển và hầu hết các doanh
    nghiệp đều phụ thuộc vào vốn vay ngân hàng.
    Ở Việt nam, các công trình nghiên cứu về cơ cấu vốn không nhiều.
    Trong luận văn thạc sỹ của tác giả Bùi Văn Thi (2001) với đề tài:’’ Đổi mới
    cơ cấu nguồn vốn của Công ty Shell gas Hải phòng” và tác giả Lê Thu Thuỷ
    (2004) “Đổi mới cơ cấu vốn của Công ty Xây dựng Lũng lô”, cũng nghiên
    cứu về cơ cấu vốn. Nhưng các tác giả mới chỉ dừng lại ở các phân tích thực
    trạng cơ cấu vốn của một doanh nghiệp cụ thể và đề xuất các giải pháp mang
    tính định tính để đổi mới cơ cấu vốn của doanh nghiệp đó. Bài viết của TS.
    Đàm Văn Huệ trên tạp chí Kinh tế phát triển số tháng 10 năm 2005,” Bàn về
    điều kiện xác lập cơ cấu vốn của doanh nghiệp Việt nam hiện nay” cũng đã
    phân tích một số nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp và các
    điều kiện xây dựng cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp Việt nam. Các điều
    kiện được phân tích chủ yếu dựa trên các cơ sở về lý thuyết mà chưa được
    kiểm chứng.
    MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
     Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về cơ cấu vốn của doanh
    nghiệp: những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu vốn, căn cứ và mô hình thiết lập
    cơ cấu vốn tối ưu.
     Đánh giá thực trạng cơ cấu vốn của các doanh nghiệp Nhà nước Việt
    Nam trên bộ số liệu điều tra 375 doanh nghiệp nhà nước của Cục Tài chính
    doanh nghiệp.
     Đề xuất giải pháp đổi mới cơ cấu vốn của các doanh nghiệp nhà nước
    Việt Nam hiện nay, theo 3 nhóm:


    10
    (i) Nhóm giải pháp định lượng: xây dựng mô hình kinh tế lượng để ước
    lượng những nhân tố ảnh hưởng đến cơ cấu vốn của các doanh nghiệp
    nhà nước Việt nam hiện nay và hoàn thiện các điều kiện xây dựng mô
    hình cơ cấu vốn.
    (ii) Nhóm giải pháp định tính: đổi mới nhận thức về cơ cấu vốn và tầm
    quan trọng của cơ cấu vốn tối ưu, xác định chính xác căn cứ thiết lập
    cơ cấu vốn, đổi mới chính sách quản lý tài chính đối với doanh
    nghiệp nhà nước .v.v .
    (iii) Nhóm giải pháp ứng dụng: xây dựng mô hình cơ cấu vốn tối ưu cho
    một doanh nghiệp điển hình (Tổng Công ty Xây dựng Công trình
    Giao thông 1 - CIENCO1).
    PHẠM VI NGHIÊN CỨU
     Nghiên cứu cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
    Phân tích, đánh giá thực trạng cơ cấu vốn của 375 doanh nghiệp Nhà nước (Số
    liệu điều tra của Cục Tài chính doanh nghiệp - Bộ Tài chính), nghiên cứu cơ
    cấu vốn của một doanh nghiệp điển hình (Tổng Công ty Xây dựng Công trình
    Giao thông 1 - CIENCO1).
     Thời gian nghiên cứu: từ năm 2000 đến năm 2005.
    PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
     Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
    duy vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện
    luận án: phương pháp phỏng vấn, thu thập thông tin, tổng hợp, so sánh, phân
    tích tình huống.
     Phương pháp toán kinh tế được sử dụng với mô hình kinh tế lượng để
    xây dựng mô hình cơ cấu vốn của các doanh nghiệp Nhà nước.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...