Tài liệu Doanh nghiệp xã hội tại việt nam - khái niệm, bối cảnh và chính sách

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI GIỚI THIỆU ix
    TÓM TẮT xi
    PHẦN THỨ NHẤT:
    DOANH NGHIỆP XÃ HỘI LÀ GÌ? 1
    1.1. KHÁI NIỆM DOANH NGHIỆP XÃ HỘI 1
    1.1.1. Vài nét về quá trình hình thành, phát triển Doanh nghiệp xã hội trên thế giới 1
    1.1.2. Quan điểm khác nhau về khái niệm Doanh nghiệp xã hội 4
    1.1.3. Đặc điểm cơ bản của Doanh nghiệp xã hội 6
    1.1.4. Doanh nghiệp xã hội và các tổ chức và phong trào xã hội khác 10
    1.2. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 19
    1.2.1. Trước Đổi mới (1986) 19
    1.2.2. Giai đoạn từ năm 1986-2010 19
    1.2.3. Từ 2010- nay 21
    1.2.4. Vài nét về cấu trúc của khu vực Doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam 24
    1.3. CÁC LOẠI HÌNH TỔ CHỨC CỦA DOANH NGHIỆP XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 26
    1.3.1. Phân loại các tổ chức Doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam hiện nay 26
    1.3.2. Một số tổ chức có thể chuyển đổi sang mô hình Doanh nghiệp xã hội 31
    PHẦN THỨ HAI:
    LÀM THẾ NÀO ĐỂ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP XÃ HỘI TẠI VIỆT NAM? 36
    2.1. KINH NGHIỆM QUỐC TẾ 36
    2.1.1. Vương quốc Anh 36
    2.1.2. Hoa Kỳ 40
    2.1.3. Hàn Quốc 42
    2.1.4. Thái Lan 44
    2.1.5. Singapore 48
    2.2. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG DOANH NGHIỆP XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 50
    2.2.1. Những khó khăn hiện tại của các Doanh nghiệp xã hội ở Việt Nam 50
    2.2.2. Các vấn đề xã hội và nguồn lực của Việt Nam: cơ hội và thách thức 57
    2.3. KIẾN NGHỊ CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH ĐỂ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 61
    2.3.1. Đi tìm một khái niệm chính thức của Việt Nam về Doanh nghiệp xã hội 61
    2.3.2. Thể chế hóa Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam 63
    2.3.3. Giải pháp khuyến khích, hỗ trợ các Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam 64
    KẾT LUẬN 67
    TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
    MỤC LỤC
    vi
    vii
    DANH MỤC HÌNH
    DANH MỤC HỘP
    Hình 1 Tính ‘lai’ đặc trưng của DNXH
    Hình 2 Nhóm đáy trong mô hình Kim tự tháp
    Hình 3 Định vị DNXH
    Hình 4 Tiêu chí đánh giá hiệu quả hoạt động của DNXH
    Hình 5 Các nội dung của CSR
    Hình 6 Một số nhãn hiệu Fair Trade điển hình
    Hình 7 Ma trận các loại hình hoạt động xã hội
    Hình 8 Hình thức tổ chức/ địa vị pháp lý của 167 DNXH tham gia khảo sát
    Hình 9 5 lĩnh vực hoạt động hàng đầu của các DNXH
    Hình 10 Hệ sinh thái của các DNXH ở Anh
    Hình 11 Một số mốc chính sách của Chính phủ Thái Lan về DNXH
    Hình 12 Cấu trúc tài sản của các DNXH
    Hình 13 Vai trò kết nối của DNXH và chính sách của nhà nước
    Hình 14 Quan điểm hiện đại về Bảng cân đối tài sản quốc gia
    Hình 15 Nhà nước cần phát triển Khu vực Xã hội dân sự, trong đó có các DNXH
    Hộp 1 Ashoka- Innovators for the Public
    Hộp 2 Grameen Bank - một DNXH điển hình
    Hộp 3 Skoll Foundation
    Hộp 4 Trường ĐH Quản lý và Kinh doanh Hà Nội - Hợp tác xã của những nhà trí thức
    Hộp 5 Chúc mừng vì được xếp vào diện nghèo
    Hộp 6 Nước mắt . từ thiện
    Hộp 7 Đại sứ Anh- ‘ODA cho Việt Nam sẽ giảm dần’
    Hộp 8 Hợp tác xã Nhân Đạo
    Hộp 9 Trung tâm Nghiên cứu và Đào tạo Phát triển Cộng đồng
    Hộp 10 Trường trung cấp Kinh tế - Du lịch Hoa Sữa
    Hộp 11 Trung tâm hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng (CSIP)
    Hộp 12 Trung tâm Nghị lực sống
    Hộp 13 Công ty TNHH thủ công Mai (Mai Vietnamese Handicrafts- MVH)
    Hộp 14 Cổng ty CP Tò he
    Hộp 15 Mô hình Tủ sách dòng họ
    Hộp 16 KOTO International
    Hộp 17 Tài chính vi mô- Quỹ CEP
    Hộp 18 Nhà máy Pin Ẩn Điển
    Hộp 19 DNNN làm việc công ích: “Khuyết tật” thị trường
    Hộp 20 Quỹ đầu tư thiện doanh LGT
    viii
    DANH MỤC BẢNG
    DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
    Bảng 1 So sánh DNXH, NGO và Doanh nghiệp truyền thống
    Bảng 2 So sánh một số chỉ tiêu tác động của DNXH và DN thông thường
    Bảng 3 Quy mô và hiệu quả kinh tế trung bình của các loại hình tổ chức
    Bảng 4 Nơi ‘trú ngụ’ của các DNXH tại Việt Nam hiện nay
    ADB Ngân hàng phát triển Châu Á
    BC Hội đồng Anh
    BoP Nhóm đáy của Kim tự tháp
    CIC Công ty vì lợi ích cộng đồng (Anh)
    CIEM Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế TW
    CP Cổ phần (Công ty)
    CSIP Trung tâm hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng
    CSR Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
    DFID Cơ quan phát triển quốc tế (Anh quốc)
    DNNN Doanh nghiệp nhà nước
    DNXH Doanh nghiệp xã hội
    DNhXH Doanh nhân xã hội
    FLO Tổ chức quản lý nhãn hiệu Thương mại công bằng
    FT Thương mại công bằng
    HDI Chỉ số phát triển con người
    HTX Hợp tác xã
    IFAD Quỹ quốc tế về phát triển nông nghiệp
    L3C Công ty lợi nhuận thấp (Mỹ)
    NFP Không-vì-lợi nhuận
    NGO Tổ chức phi chính phủ
    NPO Tổ chức phi lợi nhuận
    NSNN Ngân sách Nhà nước
    ODA Viện trợ phát triển chính thức
    OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
    OECF Quỹ hợp tác kinh tế hải ngoại (Nhật bản)
    QLNN Quản lý nhà nước
    SROI Đánh giá tác động xã hội trên đầu tư
    TNDN Thu nhập doanh nghiệp (Thuế)
    TNHH Trách nhiệm hữu hạn (Công ty)
    TSEO Văn phòng Thái về Doanh nghiệp xã hội
    WB Ngân hàng thế giới
    WWF Quỹ bảo tồn động vật hoang dã thế giới
    ix
    LỜI GIỚI THIỆU
    Trong hơn 20 năm qua, đường lối Đổi mới và chính sách mở cửa của Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự
    phát triển mạnh mẽ của khu vực doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và các tổ chức xã hội ngoài nhà
    nước. Những thành tựu tăng trưởng kinh tế mà Việt Nam đạt được rõ ràng có sự đóng góp quan trọng của các
    doanh nghiệp, cũng như vai trò của các tổ chức xã hội trong việc thực hiện nhiều mục tiêu KT-XH, như xóa đói
    giảm nghèo, bảo vệ môi trường, công bằng xã hội . Bên cạnh đó, một mô hình tổ chức mới hiện đang nổi lên như
    một sự lựa chọn thứ ba, đầy tiềm năng. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của cuộc sống, đã có rất nhiều sáng kiến
    xã hội được triển khai trên cơ sở sử dụng hoạt động kinh doanh như một công cụ nhằm đem lại các giải pháp
    xã hội bền vững hơn cho cộng đồng. Mô hình kết hợp này chính là các Doanh nghiệp xã hội (DNXH). Trên thế
    giới, DNXH đã trở thành một phong trào xã hội rộng lớn khắp các châu lục. Nhiều quốc gia đã có các chính sách
    khuyến khích, thúc đẩy DNXH trên quan điểm Nhà nước cần hợp tác và chia sẻ trách nhiệm cung cấp phúc lợi xã
    hội với các DNXH để đạt hiệu quả cao hơn.
    Trong bối cảnh khó khăn kinh tế của nước ta hiện nay, xu hướng tái cơ cấu, thắt chặt tài khóa, cắt giảm nợ công
    của Chính phủ, và trước các vấn đề xã hội, môi trường ngày càng tăng và trở nên phức tạp, chúng tôi cho rằng
    việc phát triển các DNXH là rất cần thiết cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước. Đây là thời điểm
    thích hợp để cải thiện nhận thức của xã hội cũng như của Nhà nước về bản chất, vai trò và ý nghĩa của mô hình
    DNXH. Có thể thấy, DNXH có nhiều ưu thế tiềm năng, bắt nguồn từ bản chất không lợi nhuận và mục tiêu xã hội
    bền vững của mô hình này. Các DNXH hoàn toàn có thể trở thành những đối tác hiệu quả của Nhà nước, giúp Nhà
    nước thực hiện được các mục tiêu xã hội của mình.
    Trên cơ sở đó, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) đã hợp tác với Hội đồng Anh tại Việt Nam và
    Trung tâm hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng (CSIP) thực hiện một nghiên cứu với chủ đề: “Doanh nghiệp xã hội
    tại Việt Nam - Khái niệm, bối cảnh và chính sách”, nhằm hai mục tiêu chính là: (i) thúc đẩy nhận thức của xã hội về
    DNXH; và (ii) đặt những viên gạch đầu tiên cho một cuộc thảo luận về chính sách phát triển DNXH ở Việt Nam.
    Báo cáo nghiên cứu cũng được thiết kế với hai phần tương ứng: phần I tìm hiểu một cách tòan diện về khái niệm
    DNXH trên thế giới và Việt Nam; phần II phân tích thực trạng, bối cảnh tổng thể để đưa ra các khuyến nghị chính
    sách nhằm phát triển DNXH ở Việt Nam.
    Báo cáo này được thực hiện bởi các tác giả chính gồm: TS. Nguyễn Đình Cung, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu
    Quản lý Kinh tế TW, Ông Lưu Minh Đức, Nghiên cứu viên, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế TW, Bà Phạm Kiều Oanh,
    Giám đốc Trung tâm hỗ trợ sáng kiến phục vụ cộng đồng (CSIP) và Bà Trần Thị Hồng Gấm, Quản lý các chương
    trình Phát triển và Xã hội, Hội đồng Anh tại Việt Nam. Chúng tôi muốn bày tỏ lòng biết ơn đến Ông Simon Beardow,
    Phó Giám đốc và Bà Cao Thị Ngọc Bảo, Giám đốc các chương trình Phát triển và Xã hội, Hội đồng Anh tại Việt
    Nam đã hợp tác và trợ giúp chúng tôi một cách hiệu quả trong suốt dự án trên cương vị là đại diện của nhà tài trợ.
    Chúng tôi cũng xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp đã tham gia viết và tổ chức việc nghiên cứu, gồm: Ông
    Phan Đức Hiếu và Bà Nguyễn Minh Thảo (Viện NCQLKTTW); Cô Đào Thị Huệ Chi và Bà Chế Phong Lan (CSIP); Cô
    Phạm Trần Thủy Tiên (Hội đồng Anh). Ngoài ra, chúng tôi muốn cảm ơn Bà Phạm Chi Lan và Ông Nguyễn Quang
    A, chuyên gia kinh tế độc lập; Ông Nguyễn Hoa Cương, Phó Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp (Bộ KH&ĐT);
    Ông Nguyễn Quang Vinh, Giám đốc Văn phòng Doanh nghiệp vì Phát triển bền vững (VCCI) đã có các ý kiến góp
    ý, phản biện rất hữu ích để nhóm nghiên cứu hòan thiện báo cáo.
    Để thực hiện được nghiên cứu này, chúng tôi đã tổ chức nhiều chuyến khảo sát thực tế trong và ngoài nước.
    Chúng tôi đã đến thăm và phỏng vấn 15 DNXH tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh và Hội An, Đà Nẵng; gặp gỡ và phỏng
    vấn 18 DNXH, đại diện hiệp hội DNXH, chuyên gia, cán bộ chính phủ về DNXH ở Singapore, Indonesia và Thái Lan;
    tham dự 4 sự kiện và hội thảo ở Việt Nam và 2 hội thảo, khóa đào tạo về DNXH ở Singapore và Thái Lan. Trong
    các dịp tiếp xúc trên, chúng tôi đều nhận được sự tiếp đón và hợp tác rất cởi mở và nhiệt tình từ phía các DNXH.
    Lượng thông tin thu được từ các cuộc khảo sát này là dữ liệu thực tiễn không thể thiếu cho bản báo cáo này.
    Chính vì vậy, nhân dịp này chúng tôi xin được cảm ơn các DNXH: Công ty TNHH KOTO, Công ty TNHH Viet Pictures,
    Trung tâm Nghị lực sống, Trung tâm Sao Mai, Công ty CP Tò He, Tổ chức Bloom Microventures, Công ty TNHH
    Marine Gifts, Công ty TNHH Hỗ trợ phát triển Tây Bắc, Công ty TNHH Ecolife, Công ty CP Bảo vệ cuộc sống khỏe
    (Help Corporation), Công ty TNHH Mekong Creation (Mekong Quilts), Công ty TNHH Mai Handicrafts, Trung tâm
    nghiên cứu giáo dục người khiếm thính (CED), Công ty TNHH Streets International, DNTN Phục vụ năng lượng mặt
    trời tự nhiên (Solar Serve).
    x
    Chúng tôi xin gửi lời cảm ơn đến các tổ chức và DNXH: Trung tâm Lien về sáng kiến xã hội, Phòng Chăm sóc cộng
    đồng và hỗ trợ xã hội- Bộ Phát triển cộng đồng, thanh niên và thể thao, Hiệp hội DNXH, Café Believe NJ, O School
    (Singapore); Hội đồng Anh, PT Poros Nusantara Utama, ProVisi Education, Mittran Group, Bina Swadaya, Trung tâm
    DNXH- đổi mới và khu vực Thứ ba- Trisakti University, PT Kampoeng Kearifan, Institut Pluralism (Indonesia); Văn
    phòng Thái về DXNH, Thammasat University, Change Fusion, Pensook Health, Club Creative, OpenDream, I-genius,
    Doi Tung (Thái Lan).
    Các tác giả xin chân thành cảm ơn Hội đồng Anh tại Việt Nam đã tài trợ thực hiện nghiên cứu và xuất bản Báo
    cáo này!
    TS. Nguyễn Đình Cung
    Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương
    xi
    Doanh nghiệp xã hội được hình thành từ các sáng kiến xã hội, trên nền tảng nhu cầu giải quyết một vấn đề xã hội
    cụ thể của cộng đồng, được dẫn dắt bởi tinh thần doanh nhân của những người sáng lập. Tính tự phát, năng động
    đặc thù này khiến cho nhận thức của xã hội luôn bị bỏ lại rất xa so với thực tiễn sinh động của mô hình DNXH.
    Hiện nay, ở nước ta có gần 200 tổ chức được xem có đầy đủ các đặc điểm của DNXH, các tổ chức đi tiên phong
    được thành lập từ thập niên 1990, tuy nhiên khái niệm về DNXH vẫn còn rất mới mẻ ở Việt Nam.
    Doanh nghiệp xã hội là gì?
    DNXH đầu tiên xuất hiện ở nước Anh từ thế kỷ 17. Trong các thế kỷ tiếp theo, lần lượt các mô hình tín dụng vi mô,
    hợp tác xã, nhà ở xã hội, hội ái hữu . đã ra đời và được nhân rộng ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ. Tuy nhiên, DNXH
    chỉ phát triển mạnh mẽ và trở thành một phong trào rộng lớn trên thế giới như hiện nay kể từ đầu những năm
    1980, khi mô hình Nhà nước phúc lợi dần nhường chỗ cho quan điểm đổi mới vai trò của nhà nước theo hướng
    tinh giản, nhỏ gọn, chia sẻ và chuyển một phần chức năng cung cấp phúc lợi xã hội cho khu vực thứ ba là các tổ
    chức đứng giữa khu vực công và các doanh nghiệp tư nhân. Số liệu năm 2005 cho thấy nước Anh có tới 55.000
    DNXH, với doanh thu 27 tỷ Bảng, sử dụng 475.000 lao động và đóng góp 8,4 tỷ Bảng/năm cho GDP. Trên phạm
    vi toàn cầu, phong trào DNXH cũng nở rộ, điển hình nhất là mô hình Grameen Bank của Bangladesh và người sáng
    lập được trao giải thưởng Nobel năm 2006. Nhiều quốc gia đã chính thức công nhận DNXH và tạo lập khung khổ
    pháp lý, ban hành các chính sách khuyến khích, hỗ trợ sự phát triển DNXH ở nước mình để khu vực này trợ giúp
    lại Nhà nước thực hiện có hiệu quả hơn các mục tiêu xã hội.
    Mặc dù vậy, thực tiễn phong phú của các DNXH cũng làm cho các quan điểm về khái niệm DNXH rất đa dạng,
    nhiều chiều. Nhìn chung, DNXH là một mô hình tổ chức có 3 đặc điểm then chốt sau đây:
    - Đặt mục tiêu, sứ mệnh xã hội lên hàng đầu, ngay từ khi thành lập;
    - Sử dụng các hoạt động kinh doanh, cạnh tranh bình đẳng như một phương tiện để đạt mục tiêu xã hội đó;
    - Tái phân bổ phần lớn lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh trở lại cho tổ chức, cộng đồng, và mục tiêu xã hội.
    Ngoài ra, hầu hết DNXH còn có một số đặc điểm nổi bật khác, như: (i) có cấu trúc sở hữu mang tính xã hội; (ii)
    nguồn thu được lấy từ hoạt động kinh doanh và tài trợ; (iii) hiệu quả hoạt động cần được đánh giá trên cả hai mặt
    kinh tế và xã hội; (iv) phục vụ nhu cầu của nhóm đáy, là những người nghèo, yếu thế, bị lề hóa trong xã hội; (v)
    sáng kiến, cách tiếp cận ‘từ dưới lên’; (vi) cởi mở và liên kết; (vii) gắn chặt với vai trò của DNhXH; (viii) nhân viên
    của DNXH là những người làm công tác xã hội (vẫn có lương, không phải là tình nguyện viên).
    DNXH thường được nhận diện như một mô hình ‘lai’ (hybrid) giữa hai loại hình tổ chức phi chính phủ/ phi lợi nhuận
    và doanh nghiệp. Trên thực tế, mô hình DNXH có thể áp dụng với nhiều loại hình tổ chức và có địa vị pháp lý khác
    nhau, như NGO, công ty TNHH, CP, HTX, Quỹ, hội, câu lạc bộ . Cũng cần phân biệt rõ, DNXH hoàn toàn khác với
    khái niệm Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) hay Thương mại công bằng (FT), mặc dù các mô hình này
    có thể kết nối, lồng ghép. Đáng chú ý, việc DNXH dựa trên những sáng kiến xã hội mà ở đó hoạt động kinh doanh
    được sử dụng để đem lại một giải pháp xã hội bền vững, tạo ra cho DNXH những ưu thế như tính tự chủ về tổ chức,
    bền vững về tài chính, hiệu quả và quy mô về tác động xã hội.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...