Luận Văn Doanh nghiệp nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (96

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Chương 1: DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ HIỆU QUẢ KINH DOANH

    1.1. DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
    1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhà nước
    Doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau ở các nước, do cách tiếp cận khác nhau về khoa học hoặc do để thực hiện các số liệu thống kê với mục đích khác nhau.
    Theo tổ chức phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa là các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước hoặc do nhà nước kiểm soát có thu nhập chủ yếu từ việc tiêu thụ hàng hoá và cung cấp dịch vụ. Theo định nghĩa này, doanh nghiệp nhà nước bao gồm các doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sự quản lý của các Bộ, Ngành, các doanh nghiệp mà nhà nước giữ phần lớn cổ phần, song do sự phân tán của cổ đông mà nhà nước nắm giữ quyền chi phối.
    Ở nước ta, khái niệm doanh nghiệp nhà nước trong hệ thống pháp luật Việt Nam thay đổi qua nhiều thời kì, tương ứng với sự thay đổi về quan niệm đối với sở hữu nhà nước, thay đổi trong cơ chế quản lý kinh tế. Năm 1995 Nhà nước ta đã ban hành Luật doanh nghiệp nhà nước và định nghĩa: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam” [26, tr.1]. Điểm mới về những thay đổi trong chính sách và cơ cấu kinh tế ở nước ta quy định bởi nội dung định nghĩa này được phản ánh:
    Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước đầu tư, thành lập và quản lý, nghĩa là hoàn toàn thuộc sở hữu nhà nước. Các quy chế hoạt động của doanh nghiệp nhà nước phải căn cứ vào ý chí của chủ sở hữu. Mối quan hệ giữa nhà nước với người lao động không đơn thuần là quan hệ nhà nước với chủ thể pháp luật mà còn là quan hệ giữa chủ sở hữu với người được chủ sở hữu giao quản lý tài sản. Đây là điểm khác biệt đối với doanh nghiệp tư nhân cũng như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
    Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước dưới tác động của cạnh tranh và dưới tác động của các nhu cầu phúc lợi xã hội, an ninh, quốc phòng được phân thành doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích. Việc phân chia này được đưa ra lần đầu tiên và được đề cập trong Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995.
    Thứ ba, tư cách pháp nhân của doanh nghiệp nhà nước đã xác định tính chất vô hạn trong quan hệ với các chủ thể khác đồng thời khẳng định giới hạn trách nhiệm của nhà nước trong phạm vi phần vốn mà Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước. Đây là vấn đề mà doanh nghiệp nhà nước cần chú ý khi tham gia các giao dịch dân sự, thương mại với các doanh nghiệp, các tổ chức khác.
    Tuy nhiên, khái niệm doanh nghiệp nhà nước đã được phát triển tương đối sâu trong định nghĩa và các quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003, được thể hiện ở điều I: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức Công ty nhà nước, Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn” [27, tr.7-8]. Có thể hiểu rằng: Khái niệm của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 chứa đựng nhiều đổi mới phản ánh những thay đổi khá cơ bản trong nhận thức của các nhà lập pháp và hoạch định chính sách của nước ta đối với thành phần kinh tế nhà nước cũng như các thành phần kinh tế khác.
    Thứ nhất, việc xác định doanh nghiệp nhà nước không hoàn toàn dựa vào tiêu chí sở hữu như trước đây mà tiêu chí để xác định doanh nghiệp nhà nước theo Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 là quyền kiểm soát và chi phối doanh nghiệp nhà nước. Đây chính là điểm mới trong cách tiếp cận doanh nghiệp nhà nước.
    Thứ hai, thừa nhận sự tồn tại bình đẳng của các hình thức sở hữu trong một doanh nghiệp nhà nước. Nghĩa là có những loại doanh nghiệp nhà nước mà trong đó các hình thức sở hữu khác nhau hoàn toàn bình đẳng với nhau trên nguyên tắc của nền dân chủ cổ phần. Bất kì là Nhà nước, các nhà đầu tư, các doanh nhân nếu góp vốn nhiều thì có nhiều khả năng chi phối doanh nghiệp nhà nước.
    Thứ ba, thừa nhận khả năng chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp thông thường, thông qua cơ chế chuyển nhượng, mua bán cổ phần - Nghĩa là trong quá trình tồn tại, do sự vận động của cổ phần giữa các cổ đông với nhau dẫn đến nhà nước không còn nắm giữ được đủ số lượng cổ phần chi phối thì sẽ không bảo đảm được quyền chi phối, và do vậy doanh nghiệp đó sẽ không còn là doanh nghiệp nhà nước nữa.
    Có thể nói, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 đã đa dạng hoá các doanh nghiệp nhà nước trên tiêu chí quyền chi phối. Khác với trước đây, doanh nghiệp nhà nước chỉ tồn tại dưới dạng doanh nghiệp nhà nước độc lập hoặc Tổng Công ty nhà nước thì nay doanh nghiệp nhà nước cũng có thể tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau. Chính sự đa dạng về hình thức tồn tại của doanh nghiệp nhà nước sẽ làm sinh động thành phần kinh tế công, làm cho nó thích ứng hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
    Như vậy, theo nội dung khái niệm của Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 thì doanh nghiệp nhà nước là một pháp nhân do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, có thẩm quyền kinh tế bình đẳng với các doanh nghiệp và hạch toán kinh tế độc lập trong phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước cũng có nhiều loại hình khác nhau tuỳ theo qui mô kinh doanh, chức năng, nhiệm vụ, mức độ liên kết kinh doanh và hoạt động độc lập mà có tên gọi khác nhau như: Tập đoàn kinh tế, Tổng Công ty nhà nước, Công ty nhà nước có hoặc không có Hội đồng quản trị.
    Trên cơ sở mục đích hoạt động, quy mô, hình thức và cách tổ chức quản lý mà doanh nghiệp nhà nước được phân thành các loại doanh nghiệp khác nhau, như: Doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh; doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích; doanh nghiệp nhà nước độc lập; doanh nghiệp nhà nước thành viên; doanh nghiệp nhà nước có hội đồng quản trị và doanh nghiệp nhà nước không có hội đồng quản trị.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...