Tài liệu Đô thị cổ Việt Nam

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đô thị cổ Việt Nam


    PHẦN MỞ ĐẦU

    Đô thị cổ Việt Nam hình thành xuất phát từ ý đồ chủ quan của nhà nước.
    Phần lớn các đô thị Việt Nam mang chức năng đô thị hành chính. Nhà nước tìm địa điểm xây dựng các trung tâm hành chính, từ đó đô thị ra đời.
    Trong quá trình tồn tại nảy sinh các chức năng khác chính trị, văn hoá dẫn đến sự tập trung hành chính, quân đội, tập trung dân cư, nảy sinh các nhu cầu tiêu thụ, xuất hiện các chức năng kinh tế, văn hoá, xã hội.
    Có những đô thị không tuân thủ theo những chức năng này, nhiều đô thị hình thành tự phát: như Phố Hiến.
    Các đô thị hình thành rất sớm, phát triển liên tục.
    Các thành thị Việt Nam được hình thành khai sinh nhất nước từ cổ đại đến hiện đại từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII.
    Đô thị Phố Hiến là một trong các đô thị cổ Việt Nam được khởi nguồn từ thế kỷ 15.
    Đô thị Phố Hiến hình thành từ trung tâm thế kỷ 15. Giữa thế kỷ 18 bắt đầu sự suy tàn hệ thống đô thị là những đô thị ven sông.
    Phố Hiến là đô thị lớn thứ 2, là đô thị đàng ngoài, là một trung tâm buôn bán trao đổi hàng hoá trong nước và quốc tế. Đó là sự tập trung các nguồn hàng về đây để trung chuyển lên Thăng Long kẻ chợ và các địa phương khác. Vì thế, cư dân Phố Hiến phản ánh tính chất hội tụ nhiều nguồn gốc ở trong nước cũng như ở nước ngoài.
    Hệ thống phố phường nó cũng có nét giống với Thăng Long – kẻ chợ. Thế kỷ 17, Phố Hiến là một đô thị sầm uất.

    PHẦN NỘI DUNG
    · Vị trí địa lý:
    Phố Hiến ngày nay thuộc địa phận thị xã Hưng Yên. Xưa kia, Phố Hiến nằm sát bên bờ tả ngạn sông Hồng, nhưng do phù sa bồi đắp nên ngày nay đã ở cách sông khoảng chừng 2 km. Theo dòng sông, Phố Hiến cách Hà Nội 55 km. Trước đây, từ Thăng Long xuôi thuyền xuống Phố Hiến mất khoảng 2 ngày, ngược dòng lên Kinh Đô mất 3 ngày.
    Vị trí của Phố Hiến có vai trò đặc biệt quan trọng đối với các tuyến giao thông đường thủy thuộc hệ thống sông Hồng - sông Thái Bình nằm trong vùng đồng bằng Bắc Bộ. Các nhà địa chất chia châu thổ Bắc Bộ thành 3 vùng tương ứng với ba thời kỳ thành tạo lớn: Thượng châu thổ với đỉnh của các triền sông là Việt Trì; Trung châu thổ với đỉnh là Cổ Loa và hạ châu thổ với đỉnh là Phố Hiến - Hưng Yên, từ đó các nhánh sông trải ra vùng đồng bằng như những chiếc nan quạt. Bằng đường thuỷ, từ Phố Hiến có thể liên lạc tới hầu hết các địa phương thuộc các trấn Sơn Nam, Hải Dương, An Quảng. Phố Hiến là nơi trung chuyển, cửa ngõ án ngữ hoặc thông thương củamọi tuyến giao thương đường sông từ vùng biển Bắc Bộ đi sâu vào đất liền tới Kinh thành Thăng Long, qua các tuyến sông Đáy, sông Hồng, sông Thái Bình. Vị trí này được thể hiện rõ trên Bản đồ dòng chảy Sông Đàng Ngoài từ Cacho (Hà Nội) ra đến biển do một nhà hàng hải người Anh vẽ vào thế kỷ 17.
    Trong chuyến du hành đến Đàng ngoài Việt Nam năm 1688, một nhà hàng hải người Anh tên là William Dampier đã nhắc đến hai cửa sông chính từ biển Đông vào Đàng Ngoài là cửa Rokbo và cửa Domea. Cửa Rokbo là cửa sông Đáy, cửa sông lớn nhất kể từ phía Nam, trong các thư tịch cổ còn mang tên Cửa Đại, Cửa Đại Ác hoặc Cửa Liêu. Tên Rokbo là biển âm của Độc Bộ, tên đoạn hạ lưa sông Đáy thông ra biển, ngược lên sông Vị Hoàng (thuộc Nam Định), ăn thông vào sông Hồng. Vào thế kỷ 17, cửa sông này tương đối nông, độ nước sâu không quá 17 bộ (khoảng 3,648 m), nhưng đáy là một lớp phù sa mềm, nên rất tiện lợi cho các thuyền nhỏ. Cho đến khoảng giữa thế kỷ 17, đó là lối vào chính của các thuyền mành Trung Quốc và Xiêm La ngược sông lên bỏ neo ở Phố Hiến. J.B. Tavernier trong Du ký năm 1679 gọi là “Cua Dang” và nhận xét: “Tất cả những tàu lớn đều phải dừng lại ở cửa này, không thể vào đường sông lớn Kẻ Chợ, vì nó đã bị bồi đầy cát từ vài năm nay”. Đại Nam nhất thống chí cũng ghi: “Cửa Liêu là cửa biển trọng là cửa biển trọng yếu ở Bắc Kỳ, sau vì cát bồi lấp, thuyền ghe không thông”. Các tác giả phương Tây còn nhắc đến một tảng đá trên đó khắc hàng chữ lưu niệm “Baron 1680” ở ven bờ sông Đáy, chứng tỏ vào thời điểm đó, thương nhân Samuel Baron đã đi qua nơi này. Samuel Baron là con lai cảu một phụ nữ Việt Nam với Giám đốc thương điếm Hà Lan ở Đàng Ngoài Hendrik Baron, sau đó nhập quốc tịch Anh và làm nhân viên cho Công ty Đông Ấn Anh.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...