Luận Văn Định vị thời gian trong tiếng Việt dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận

Thảo luận trong 'Ngôn Ngữ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    #1 Thúy Viết Bài, 5/12/13
    Last edited by a moderator: 15/6/14
    LUẬN VĂN TIẾN SĨ DÀI 203 TRANG CÓ FILE WORD





    DẪN NHẬP



    1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU



    1.1. Lý do chọn đề tài

    Trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, quan hệ giữa con người với thời gian có một ý nghĩa đặc biệt. Có thể nói, quá trình phát triển của nhân loại gắn liền với thời gian lịch sử. Con người nhận thức thời gian và sự nhận thức này được phản ánh theo những hình thức biểu hiện riêng biệt của từng ngôn ngữ. Và như vậy, ngôn ngữ là một trong những công cụ tri nhận về thời gian của loài người.

    Trong ngôn ngữ học, vấn đề thời gian, định vị thời gian trong các câu phát ngôn của một số ngôn ngữ đã được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm và nghiên cứu từ lâu.

    Đối với tiếng Việt, có thể nói rằng từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, vấn đề này chưa thật sự trở thành một đối tượng nghiên cứu có tính chất hệ thống. Chỉ bắt đầu từ năm 1883 - năm cuốn Ngữ pháp tiếng Việt (Grammaire de la language Anammite) của Trương Vĩnh Ký ra đời - trở về sau, mới có khá nhiều công trình ngôn ngữ học đề cập đến vấn đề tìm hiểu về sự định vị, nhận diện thời gian trong tiếng Việt, về phạm trù thời gian trong tiếng Việt, xét từ nhiều góc độ khác nhau (ngữ pháp truyền thống, ngữ nghĩa, logic, ngữ dụng, tri nhận, v.v ).

    Tuy nhiên vẫn có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề thời gian, định vị thời gian trong tiếng Việt. Nhiều tác giả (trong nước và ngoài nước), khi viết về tiếng Việt, đều nhất trí cho rằng tiếng Việt cũng có phạm trù thì hiểu như một phạm trù ngữ pháp (một hiện tượng ngữ pháp hóa như các ngôn ngữ biến hình ở châu Âu) và cho rằng các từ như: đã chỉ thời quá khứ, đang chỉ thì hiện tại và sẽ chỉ thời tương lai (Trương Vĩnh Ký, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Thành ).

    Bên cạnh đó, còn có nhiều ý kiến khác. Có nhiều tác giả cho rằng tiếng Việt không có phạm trù thì, bởi vì, qua nghiên cứu những đặc trưng riêng của tiếng Việt, một số các nhà nghiên cứu ngôn ngữ chỉ ra rằng tiếng Việt không có một lớp từ riêng biệt chuyên thể hiện thời gian như một phạm trù ngữ pháp (Nguyễn Đức Dân, Cao Xuân Hạo ). Lại có một số tác giả cho rằng trong một số trường hợp cụ thể, thời gian có thể được nhận diện thông qua các suy luận logic chứ không căn cứ một cách trực tiếp vào các yếu tố ngôn ngữ; những cơ chế ngôn ngữ tạo thành ý nghĩa thời gian logic có thể bị khác đi do chịu sự tác động của một số hiện tượng ngôn ngữ khác như các từ tình thái chẳng hạn (Nguyễn Đức Dân ). Cũng có các tác giả cho rằng khi định vị thời gian nên xét dưới góc độ tri nhận, qua đó, có thể đáp ứng được hướng đi tìm cái bản sắc, cái đặc thù riêng của ngôn ngữ dân tộc (Lý Toàn Thắng, Trần Văn Cơ ) v.v

    Với sự ra đời của ngành ngôn ngữ học tri nhận, ngày càng có nhiều công trình đóng góp vào việc nghiên cứu ngôn ngữ về mặt tri nhận, trong đó có vấn đề tri nhận về thời gian. Ngoài ra, như đã biết, ngôn ngữ không chỉ là công cụ tư duy, công cụ giao tiếp mà nó còn là một “sản phẩm” tinh thần của con người, mang những nét văn hóa riêng của mỗi dân tộc. Bên cạnh việc xác lập bức tranh chung về thời gian trong tiếng Việt trước đây theo lý thuyết ngôn ngữ truyền thống, việc xác lập bức tranh thời gian trong tiếng Việt dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận cũng là điều cần thiết.



    Cho đến nay, đề tài nghiên cứu về thời gian, về vấn đề định vị thời gian trong tiếng Việt theo góc độ tri nhận vẫn còn là đề tài hấp dẫn, thú vị, có sức mời gọi người nghiên cứu.



    1.2. Mục đích nghiên cứu

    Có rất nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề thời gian trong tiếng Việt. Chính sự khác biệt trong quan điểm và phương pháp nghiên cứu khác nhau của các tác giả đã dẫn đến sự nhận thức khác nhau, thậm chí là đối lập nhau. Có lẽ nên có thêm nhiều sự đóng góp nữa về vấn đề thời gian, định vị thời gian, cũng như xác lập bức tranh ngôn ngữ thời gian trong tiếng Việt dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận; để từ đó, có thể tổng hợp lại các công trình nghiên cứu và đi đến một sự thống nhất về quan điểm, về phương pháp nghiên cứu, đồng thời triển khai, xây dựng và thống nhất vấn đề một cách có hệ thống.

    Trong lĩnh vực ý nghĩa của ngôn ngữ và tương ứng với nó là lĩnh vực khái niệm, ý niệm việc xác lập một số phạm trù ngữ nghĩa cơ bản dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận là một điều hết sức cần thiết để có thể xây dựng được một hệ thống ngữ nghĩa có tính chất đầy đủ và khoa học. Cũng như các phạm trù khác chẳng hạn như “không gian”, “tư duy”, “vật chất” v.v , phạm trù thời gian trong tiếng Việt cần được ngữ nghĩa hoá một cách có hệ thống dựa trên cơ sở phân tích ý nghĩa và phân loại các thành tố ngôn ngữ nằm trong phạm trù này. Bên cạnh việc xác lập ngữ nghĩa thời gian, việc nghiên cứu thời gian và ngôn ngữ thời gian trong tiếng Việt có thể được xem xét từ nhiều góc độ (ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ dụng, tri nhận, văn hóa,v.v ) , từ nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng xét cho cùng, cần dựa vào đặc trưng riêng của bản ngữ trong sự miêu tả, sự nhận diện thời gian chứ không nên dựa vào một định kiến có sẵn, một sự áp đặt khiên cưỡng nào. Và nếu có được như thế thì mới có thể thấy được cái tâm hồn, cái văn hóa dân tộc ẩn chứa trong cách biểu hiện thời gian của người Việt bằng chính ngôn ngữ dân tộc.



    2. NHIỆM VỤ, ĐỐI TƯỢNG, GIỚI HẠN ĐỀ TÀI

    2.1. Với những lí do và mục đích đã trình bày ở trên, nhiệm vụ cơ bản của luận án là mô tả và trình bày có tính chất hệ thống về vấn đề thời gian trong tiếng Việt ở góc độ ngôn ngữ học tri nhận. Tất nhiên, sự mô tả này chỉ có tính chất bước đầu trong mối liên hệ với những đặc trưng của tiếng Việt.

    Để thực hiện được điều này, luận án có nhiệm vụ tìm hiểu về những vấn đề cơ bản về lý thuyết của ngôn ngữ học tri nhận có liên quan đến luận án như vấn đề tri nhận và quá trình tri nhận, vấn đề ý niệm, điển dạng, các mô hình tri nhận, vấn đề ẩn dụ ý niệm, hoán dụ ý niệm và vấn đề thời gian thông qua ẩn dụ và hoán dụ, sự hoà trộn ý niệm trong lĩnh vực không gian và thời gian; tìm hiểu mối quan hệ nghĩa giữa không gian và thời gian, tìm hiểu về ngữ nghĩa thời gian, liệt kê và miêu tả việc định vị thời gian cũng như sự biểu hiện thời gian bằng ngôn ngữ dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận và theo sự tri nhận của người Việt; tìm hiểu ẩn dụ thời gian trong văn chương trong so sánh đối chiếu giữa tiếng Việt và tiếng Anh, từ đó, định hình phần nào về bức tranh thời gian có tính chất qui ước xã hội, có tính chất văn hóa, có tính chất mô-típ của cộng đồng người Việt.

    2.2. Đối tượng khảo sát là ngôn ngữ tự nhiên trong mối quan hệ với con người theo nguyên lý “dĩ nhân vi trung”. Trong giới hạn của luận án, đối tượng khảo sát ở đây không phải là tất cả các phương tiện ngôn ngữ biểu thị thời gian, các cách thức định vị thời gian mà chỉ là một số yếu tố ngôn ngữ biểu thị thời gian, một số cách thức định vị thời gian có tính chất phổ biến và có giá trị tiêu biểu theo hướng tiếp cận lý thuyết ngôn ngữ học tri nhận. Những yếu tố ngôn ngữ được miêu tả trong luận án chủ yếu là trích từ các văn bản nghệ thuật, văn bản chính luận của các nhà văn, nhà thơ Việt Nam và nước ngoài, các tình huống giao tiếp trong đời thường.



    2.3. Lĩnh vực và phạm vi nghiên cứu của luận án này là tìm hiểu ý niệm thời gian trên cơ sở lý thuyết ngôn ngữ học tri nhận, để từ đó, tìm hiểu về sự định vị thời gian sự kiện trong câu phát ngôn tiếng Việt. Đồng thời, cũng từ đây, luận án bước đầu đi vào nghiên cứu vấn đề ẩn dụ ý niệm thời gian trong tác phẩm văn chương Việt Nam trong sự đối chiếu với văn thơ nước ngoài.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...