Tiểu Luận Định hướng XHCN của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam Doanh nghiệp Nhà nư

Thảo luận trong 'Kinh Tế Chính Trị' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài:Định hướng XHCN của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở VN Doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần



    LỜI NÓI ĐẦU

    Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Sự nghiệp đổi mới kinh tế dòi hỏi phải nhanh chóng tiếp cận những lý luận và thực tiễn quản lý kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Quá trình đổi mới kinh tế cần có những cán bộ kinh tế có kiến thức có phương pháp thích hợp với kinh tế thị trường.

    Vào cuối những năm 80 của thế kỷ 20, về cơ bản nền kinh tế của Việt Nam sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên hiện vật, tự cung, tự cấp còn chiếm ưu thế, vận hành theo cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp và có nhiều sai lầm trong nhận thức về mô hình xã hội chủ nghĩa. Việt Nam đã không nhận thức đúng về kinh tế thị trường, cho rằng sản xuất hàng hoá là hình thức tổ chức của Chủ nghĩa tư bản, đồng nhất hình thức sở hữu với hình thức tổ chức kinh tế và thành phần kinh tế; coi nhẹ qui luật giá trị, qui luật cạnh tranh; chỉ thấy mặt tiêu cực của thị trường.

    Xã hội Việt Nam vẫn dựa trên nền tảng của văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Vì vậy Việt Nam vẫn là nước nghèo nàn, lạc hậu và kém phát triển. Do đó phát triển trở thành nhiệm vụ, mục tiêu số 1 đối với toàn Đảng, toàn dân ta trong những bước đường đi tới. Muốn vậy phải chuyển nền kinh tế quốc dân sang trạng thái của sự phát triển, là phát triển nền kinh tế thị trường cùng với nó là thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

    Để làm được điều đó chúng ta cần phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Đây là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở Việt Nam hiện nay. Chuyển nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, hành chính, quan liêu bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN là nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối với nền kinh tế của Việt Nam trong hiện tại và trong tương lai để đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá để huy động sức mạnh của toàn dân vào việc khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa, cần phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Đó là chủ trương có tính chiến lược trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam hiện nay mà Đảng và nhà nước Việt Nam đã xác định.

    Vấn đề phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước Việt Nam hiện nay và nó se được giải quyết ở trong tiểu luận này với những nội dung chính như sau:






    I. LÝ LUẬN CHUNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN CỦA NỀN KINH TẾ NHIỀU THÀNH PHẦN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở VIỆT NAM.


    Nói đến quan điểm nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần thì trước hết ta phải hiểu nền kinh tế hàng hóa là gì ? xã hội chủ nghĩa là gì ? thế nào là thành phần kinh tế và tại sao phải phát triển nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà không theo một định hướng khác.



    1.1 Khái niệm về xã hội chủ nghĩa .


    Tại đại hội Đảng lần thứ VIII vào tháng 6 – 1996 đã xác định xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ, có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chủ yếu có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột mọi người có quyền làm chủ bản thân mình và làm theo năng lực hưởng theo lao động. Là xã hội mà người dân có cuộc sống ấm no hạnh phúc, tự do trong khuôn khổ pháp luật, có điều kiện để phát triển toàn diện cá nhân, các dân tộc trong nước đoàn kết, bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ và hợp tác với nhân dân ở các nước trên thế giới.


    Theo Mác xã hội chủ nghĩa đáng lẽ phải ra đời từ các nước tư bản văn minh có nền kinh tế phát triển cao, song do lịch sử Việt Nam đã chịu ách thống trị của phong kiến và thực dân, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo nhân dân giành độc lập dân tộc đưa đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa. Vì vậy Việt Nam là nước có nền kinh tế chưa phát triển còn nghèo nàn lạc hậu. Do vậy Đảng và Nhà nước đã đề ra đường lối xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa để Việt Nam theo kịp các nước phát triển trên thế giới.


    1.2 Thế nào là nền kinh tế hàng hóa ?


    Nền kinh tế hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà sản xuất ra để bán, trao đổi trên thị trường. Trong kiểu tổ chức mà toàn bộ quá trình sản xuất phân phối, trao đổi tiêu dùng sản xuất ra cái gì, cho ai đều thông qua mua bán và hệ thống thị trường quyết định.


    Do nền kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo kém hiệu quả chưa làm tốt vai trò lãnh đạo, kinh tế hợp tác chậm đổi mới. Nhiều hình thức hợp tác mới ra đời chưa được đánh giá cao, chưa có sự giúp đỡ của nhà nước nên hoạt động còn kém chưa phát triển. Bên cạnh đó các doanh nghiệp tiêu cực do việc quản lý doanh nghiệp còn nhiều sơ hở . Do vậynhiệm vụ của nhân dân là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.




    1.3 Việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


    Việc phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa là đi đến mục tiêu không còn áp bức, bóc lột, đi đến chế độ công hữu các tư liệu sản xuất thực hiện được công bằng xã hội và xã hội có mức sống cao. Đi theo kinh tế tư bản chủ nghĩa là khác với cơ chế tư bản chủ nghĩa là khả năng từng bước rút ngắn khoảng cách giầu nghèo trong khi chủ nghĩa tư bản có thể dẫn đến tiêu cực.


    “ Định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa việc phát triển lực lượng sản xuất xây dựng quan hệ sản xuất mới, phải khắc phục được nguy cơ tụt hậu về kinh tế, xây dựng thành công cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Phải có những cải cách mới các hình thái kinh tế xã hội thay thế chế độ sở hữu này bằng chế độ sở hữu khác nhưng sự thay thế đó không diễn ra trong một lúc mà có tính kế thừa lịch sử trong thời kỳ quá độ, lâu dài có một chế độ sở hữu thuần nhất theo quy luật phủ định của phủ định. Mỗi sự vật - một hiện tượng mới ra đời đều kế thừa những yếu tố tích cực và từng bước thải loại những nhân tố tiêu cực của hình thái cái mới và cái cũ đan kết với nhau trong mỗi sự vật và tác động lẫn nhau. Quá trình đổi mới nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc một vấn đề quan trọng nhất, cơ bản nhất của tư duy kinh tế mới của Đảng Việt Nam ”.


    Thực hiện mục tiêu đó là một nhiệm vụ lâu dài của nhiều thế hệ, phải giải quyết bằng nhiều biện pháp không làm tổn hại đến lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy chỉ phải là xã hội hóa xã hội chủ nghĩa trong thực tế nền sản xuất xã hội.


    1.4 Cơ cấu sở hữu trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam :

    a- Quan điểm mới trong việc đánh giá, xem xét cơ cấu sở hữu ở VN


    _ Phải xem xét sở hữu là nền tảng kinh tế của 1 chế độ XH.

    _ Phải xuất phát từ trình độ phát triển của LLSX để lựa chọn các hình thức sở hữu và liên kết trong một cơ cấu sở hữu chung.

    _ Lờy hiệu quả KTXH làm thước đo việc xác lập cơ cấu sở hữu trong XH loài người.

    _ Để cho sở hữu không chỉ dừng lại về mặt pháp lý mà còn thực hiện về mặt kinh tế, cần gắn sở hữu với kinh tế.

    _ Không nên chỉ dừng lại ở kết cấu bên ngoài của sở hữu mà cần phải đổi mới cả kết cấu bên trong của sở hữu tức là phải tìm ra được cơ chế thích hợp để hiện thực hoá.






    b- Các loại hình sở hữu đang tồn tại :


    _ Sở hữu công cộng:

    + Nó là sở hữu của những người lao động được giải phóng và liên kết lại.

    + Không dẫn đến bóc lột

    + Nó phải có tính chất xã hội trực tiếp

    Mác và Ănghen hay gọi sở hữu công cộng là sở hữu xã hội. Sở hữu công cộng với nội dung như vậy thì nó được thiết lập 1 cách đầy đủ trong giai đoạn cao cuả chủ nghĩa cộng sản ( LLSX & NSLĐ phát triển cao, của cải XH dồi dào như lực lượng tự nhiên, XH không còn giai cấp, không còn NN ). Khi chưa đủ 2 điều kiện này thì chưa có sở hữu công cộng theo nghĩa đầy đủ. Có sở hữu NN, sở hữu tập thể thì mới chỉ có nhân tố của sở hữu công cộng. Tuy nhiên trong khuôn khổ nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN và dựa trên sự đa dạng về hình thức sở hữu ta cũng có thể coi sở hữu NN và sở hữu tập thể là đại diện cho sở hữu công cộng nhưng nó chưa phải là sở hữu công cộng.

    _ Sở hữu tư nhân:

    Là hình thức SH mà tài sản, vốn, thuộc về các chủ tư nhân ( có thể là nhà tư bản tư nhân, 1 tiểu chủ ). Về xuất xứ SH tư nhân ko phải do NN và pháp luật tạo ra, nó có trước NN và pháp luật, có tư nhân rồi mới có sự phân chia giai cấp XH.

    Trong các quan điểm kinh tế của phương Tây người ta rất tôn trọng tư nhân. SH tư nhân gắn với cá nhân của con người, biết khai thác yếu tố cá nhân và tạo ra được sự tăng trưởng kinh tế.

    _ Sở hữu hỗn hợp:

    Là loại hình SH dựa trên cơ sở liên kết về vốn, về tài sản giữa kinh tế và NN hoặc giữa hợp tác kinh doanh. Cơ cấu sơ hữu của thời kỳ quá độ ở VN hiện nay chính SH hỗn hợp là SH trung gian để kết nối tư nhân và hỗn hợp đê đảm bảo định hướng phát triển của SH tư nhân. Trong SH hỗn hợp có hình thức SH cổ phần, nó mới xuất hiện trở lại ở VN. Có thể nói là sự xuất hiện trở lại của nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với quá trình chuyển sang KTTT định hướng XHCN ở VN.

    Trong cơ sở 3 loại hình SH này trong điều kiện ở VN hiện nay xuất phát từ thực trạng về LLSX cũng như về năng lượng quản lý, tiềm năng về vốn trong dân cư, sự tác động của xu thế hội nhập. 3 loại hình SH trên sẽ được đa dạng hoá thành 6 hình thức cụ thể như sau :

    SHNN

    SH tập thể

    SH cá thể

    SH tư bản tư nhân

    Đồng SH giữa NN với tư bản tư nhân

    SH của các chủ đầu tư nước ngoài




    c- Quan hệ giữa các loại hình SH:


    _ SH công cộng và SH tư nhân đều là những yếu tố cấu thành, cơ cấu SH đa dạng trong quá trình hình thành và phát triển KTTT định hướng XHCN ở VN. Nghĩa là ta không nên xem xét chia tách rời giữa SHCC và SH tư nhân.

    _ Trong cơ cấu sở hữu đó thì SHCC giữ vai trò nền tảng. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc vì CNXH của VN là CNXH theo quan điểm Mác-Lênin.

    _ Sở hữu tư nhân là một trong những động lực kinh tế quan trọng của nền KTTT. SH tư nhân chính là cái chung của KTTT. Thừa nhận SH tư nhân trong nền kinh tế nhưng thừa nhận trong kết cấu SH đa dạng, chính vì thế họ đã xử lý, kết hợp 1 cách hài hoà giữa SH tư nhân và SHCC. Điểm cốt lõi ở đây là giải pháp 1 cách hợp lý mối quan hệ giưã SHCC và SH tư nhân.

    _ Sự phát triển của SH cổ phần: chính là cơ chế để cho SH tư nhân dần dần tiếp cận với SHCC. ở VN phải tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển của SH cổ phần.


    II. NỀN KINH TẾ HÀNG HÓA NHIỀU THÀNH PHẦN Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.


    2.1 Tính tất yếu khách quan dẫn đến việc tồn tại và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở Việt Nam.


    Sự tồn tại khách quan của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là đặc trưng kinh tế mang tính phổ biến ở các nước và ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ở Việt Nam cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tồn tại khách quan là vì khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội điểm xuất phát về lực lượng sản xuất về phân công lao động, năng xuát lao động, trình độ phát triển thấp, không đều qiữa các xí nghiệp các ngành . Việc xây dựng và phát triển kinh tế hàng hóa có sự quản lý vĩ mô của nhà nước thực hiện sự công nghiệp hóa hiện đại hóa nhằm xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội. Chỉ có phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta mới giải quyết được những vấn đề việc làm trên đất nước VN là có lao động thặng dư. Lý luận về quốc hữu hóa của chủ nghĩa Mác – Lê Nin khẳng định không nên quốc hữu hóa ngay một lúc mà phải tiến hành từ từ theo từng giao đoạn và bằng hình thức phương pháp điều kiện phù hợp với doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa còn tồn tại. Đối với tư hữu nhỏ thì chỉ có thông qua con đường hợp tác hóa theo các nguyên tắc mà Lê Nin đã vạch ra là tự nguyện, dân chủ cùng có lợi đồng thời tuân theo các quy luật khách quan. Qua đó ta thấy sự tồn tại và phát triển của nền kinh tế VN.


    Để thấy được vai trò quan trọng của vấn đề đó ta đi sâu nghiên cứu từng thành phần kinh tế.




    2.2 Vị trí vai trò của các thành phần kinh tế.


    Các thành phần kinh tế ở VN có sự khác nhau rõ nét về hình thức sở hữu, cách thức thu nhập. Tuy nhiên chúng đều xuất phát từ yêu cầu phát triển khách quan vì vậy mỗi thành phần kinh tế là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Chúng có vị trí vai trò nhất định trong hệ thống kinh tế có sự quản lý của nhà nước.
     
Đang tải...