Tiến Sĩ Định hướng xác lập và áp dụng khung pháp lý về kế toán cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 5/3/15.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    PHẦN MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Theo số liệu do Tổng cục thống kê công bố, hiện nay phần lớn doanh
    nghiệp đang hoạt động ở Việt Nam có quy mô nhỏ và vừa. Nếu phân loại theo quy
    mô lao động, trong số hơn 500.000 doanh nghiệp đang hoạt động trên cả nước tính
    đến tháng 4/2014 chỉ 2% doanh nghiệp có quy mô lớn, 2% là doanh nghiệp quy
    mô vừa còn 96% là các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, còn nếu tính cả các hộ cá
    thể thì tỷ lệ doanh nghiệp siêu nhỏ chiếm tới 99,9% (Vũ Tiến Lộc, 2014). Trong
    khoảng 10 năm trở lại đây, số lượng các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa có tốc
    độ tăng trung bình hàng năm rất lớn (doanh nghiệp siêu nhỏ tăng 24,7% trong khi
    doanh nghiệp nhỏ là 20,41%) (Sách trắng DNNVV 2011). Đến năm 2012, theo số
    liệu từ VCCI, các DNNVV sử dụng 50% lực lượng lao động của nền kinh tế và
    đóng góp khoảng 40% GDP hàng năm. Trên phạm vi toàn thế giới, theo thống kê
    của OECD, DNNVV chiếm khoảng từ 96% - 99% trong tổng số doanh nghiệp.
    Như vậy, có thể thấy các doanh nghiệp này ngày càng đóng vai trò quan trọng
    trong nền kinh tế, khối DNNVV đóng góp không nhỏ trong việc huy động nguồn
    lực cho đầu tư phát triển, sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực kinh tế, giải quyết
    việc làm, xóa đói giảm nghèo, góp phần tích cực vào việc thúc đẩy kinh tế - xã hội
    phát triển.
    Mặc dù chiếm một tỷ trọng rất lớn và có vị trí hết sức quan trọng đối với sự
    phát triển của nền kinh tế nhưng công tác kế toán tại DNNVV hiện nay nhìn chung
    vẫn chưa được chú trọng. Nội dung tổ chức công tác kế toán chưa được gắn kết
    thành một hệ thống theo một trình tự khoa học mà được thực hiện một cách tùy
    tiện theo mục tiêu do chủ doanh nghiệp hoặc ban giám đốc đề ra nhằm để đối phó
    với cơ quan quản lý mà chủ yếu là cơ quan thuế chứ chưa thực sự mang lại thông
    tin kế toán hữu ích cho các đối tượng sử dụng. Sở dĩ có tình hình trên là do nhiều
    nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân nổi bật là do các quy định pháp lý
    về kế toán cho DNNVV chưa được nghiên cứu ban hành một cách riêng biệt, có hệ
    thống và phù hợp với thực tế hoạt động của DNNVV ở Việt Nam hiện nay. Có thể
    nói trong thời gian qua, công tác kế toán trong DNNVV ở nước ta được thực hiện 2

    dựa trên nền tảng khung pháp lý về kế toán áp dụng cho doanh nghiệp nói chung
    mà chủ yếu là cho doanh nghiệp có quy mô lớn và có một số điều chỉnh thông qua
    các văn bản pháp lý để có sự phù hợp nhất định đối với DNNVV, chứ thực sự chưa
    hình thành khung pháp lý về kế toán một cách độc lập để áp dụng phù hợp cho
    DNNVV ở nước ta. Chính điều này đã tạo ra lỗ hổng về mặt pháp lý trong tổ chức
    thực hiện kế toán cũng như tính nghiêm túc trong việc tuân thủ các văn bản pháp
    lý được ban hành.
    Trong thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu có liên quan đến
    công tác kế toán tại DNNVV nhưng hầu như chưa có một công trình nào nghiên
    cứu một cách toàn diện, có tính tổng thể về khung pháp lý kế toán áp dụng cho
    DNNVV. Xuất phát từ tình hình trên, chúng tôi chọn đề tài “Định hướng xác lập
    và áp dụng khung pháp lý về kế toán cho DNNVV ở Việt Nam” làm luận án
    tiến sĩ.
    2. Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu
    Qua kết quả một số nghiên cứu đã thực hiện, có thể thấy thực tiễn hiện nay
    về công tác kế toán ở DNNVV còn nhiều bất cập, trong khi đó, các văn bản pháp
    lý về kế toán hiện hành quy định cho các đối tượng này chưa thực sự phù hợp với
    đặc điểm quản lý và hoạt động của DNNVV nên chưa giải quyết thỏa đáng các vấn
    đề phát sinh trên thực tế, việc vận dụng các văn bản này vào thực tiễn còn nhiều
    hạn chế. Để góp phần cải thiện thực trạng này, tác giả thực hiện luận án với mục
    tiêu tổng quát đó là: trên cơ sở đánh giá thực trạng của việc vận dụng các văn bản
    pháp lý về kế toán áp dụng cho DNNVV hiện hành ở Việt Nam cùng với việc tiếp
    cận khung pháp lý về kế toán cho DNNVV ở một số quốc gia, luận án thực hiện
    việc xác lập khung pháp lý về kế toán một cách tổng thể cho các doanh nghiệp này
    và nghiên cứu việc áp dụng khung pháp lý này một cách hiệu quả. Từ mục tiêu
    tổng quát trên, luận án xác định các mục tiêu cụ thể như sau:
    1. Đánh giá thực trạng vận dụng các văn bản pháp lý kế toán vào tổ chức công tác
    kế toán tại các DNNVV trong thời gian gần đây để chỉ ra sự cần thiết phải có khung
    pháp lý về kế toán áp dụng riêng cho DNNVV ở Việt Nam. 3

    2. Khảo sát nhu cầu thông tin của các đối tượng sử dụng khác nhau kết hợp với
    những đánh giá của các đối tượng sử dụng thông tin về nội dung và chất lượng
    thông tin kế toán do DNNVV cung cấp để định hướng xác lập khung pháp lý về kế
    toán dành riêng cho các doanh nghiệp này, đảm bảo cung cấp thông tin đầu ra thích
    hợp với nhu cầu của các đối tượng sử dụng.
    3. Nghiên cứu khung pháp lý về kế toán cho DNNVV ở một số quốc gia để từ đó
    tham khảo cho việc nhận định và xác lập một cách tổng thể khung pháp lý về kế
    toán hoàn chỉnh, phù hợp với DNNVV ở Việt Nam. Nội dung khung pháp lý được
    xác lập mang tính tổng quát, làm cơ sở cho việc thực hiện nghiên cứu sâu từng vấn
    đề có liên quan thông qua các nghiên cứu tiếp theo.
    4. Nhận diện mô hình các nhân tố tác động đến việc áp dụng các văn bản pháp lý
    vào thực tiễn và làm rõ mức độ tác động của các nhân tố này, từ đó đề xuất các giải
    pháp góp phần đưa các văn bản này áp dụng vào thực tiễn một cách nhanh chóng và
    hiệu quả.
    Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu nói trên, luận án đặt ra một số câu hỏi
    nghiên cứu cần phải giải quyết:
    - Hiện tại việc tổ chức thực hiện công tác kế toán ở DNNVV dựa trên những quy
    định pháp lý nào? Những quy định pháp lý này có những hạn chế gì? Và với việc
    vận dụng các quy định pháp lý này, nội dung và chất lượng thông tin kế toán do
    DNNVV cung cấp được các đối tượng sử dụng đánh giá như thế nào?
    - Có cần thiết ban hành riêng khung pháp lý về kế toán cho DNNVV không? Nếu
    cần phải ban hành riêng thì khung pháp lý này phải được xây dựng trên cơ sở nào?
    Và nội dung khung pháp lý về kế toán cho DNNVV bao gồm những quy định và
    văn bản pháp lý nào?
    - Có những nhân tố nào ảnh hưởng đến việc áp dụng khung pháp lý về kế toán
    vào điều kiện thực tế tại DNNVV Việt Nam và cần có những tác động như thế nào
    để tăng cường tính hiệu lực của khung pháp lý đã nghiên cứu ban hành?
    4

    3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    3.1. Đối tượng nghiên cứu:
    Đối tượng nghiên cứu của luận án là các văn bản pháp lý chi phối công tác kế
    toán DNNVV đã được ban hành và hiện đang được áp dụng ở Việt Nam và khung
    pháp lý về kế toán áp dụng cho DNNVV ở một số quốc gia cũng như chuẩn mực kế
    toán quốc tế áp dụng cho DNNVV.
    3.2. Phạm vi nghiên cứu:
    Phạm vi nội dung: Phạm trù khung pháp lý về kế toán cho doanh nghiệp được
    nghiên cứu dưới nhiều cấp độ khác nhau, có thể nghiên cứu một cách tổng thể hoặc
    đi vào cụ thể ở từng cấp văn bản. Trong luận án này, tác giả tập trung vào nghiên
    cứu tổng thể các văn bản pháp lý chi phối công tác kế toán tại DNNVV ở Việt
    Nam.
    Phạm vi không gian: Đối tượng khảo sát, các thang đo và mô hình nghiên cứu
    được kiểm định cho trường hợp điển hình là các DNNVV giới hạn trong phạm vi
    TP.HCM và một số tỉnh lân cận.
    Phạm vi thời gian: Việc thực hiện nghiên cứu, tiến hành khảo sát và thu thập
    dữ liệu được thực hiện trong khoảng thời gian từ năm 2012 đến năm 2014.
    4. Phương pháp nghiên cứu
    Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, trong luận án này tác giả sử dụng kết
    hợp giữa hai phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng.
    Nghiên cứu định tính được sử dụng trong nghiên cứu này với kỹ thuật
    phỏng vấn ý kiến chuyên gia đại diện cho những nhà nghiên cứu, giảng dạy kế
    toán kiểm toán, những người có kinh nghiệm trực tiếp làm kế toán và các đối
    tượng sử dụng thông tin kế toán DNNVV. Kết quả của nghiên cứu này là cơ sở để
    tác giả phát triển bản nháp của bảng câu hỏi khảo sát. Từ bước này, bảng câu hỏi
    được xây dựng để sau đó tiến hành khảo sát thử nhằm phát hiện những câu từ khó
    hiểu hoặc dễ gây hiểu lầm, xác định tính phù hợp của nội dung các câu hỏi, phát
    hiện những sai sót của bản nháp và bước đầu kiểm tra thang đo, từ đó cho ra sản
    phẩm là bảng khảo sát hoàn chỉnh. 5

    Phương pháp nghiên cứu định lượng được sử dụng trong luận án để phân
    tích, đánh giá về thực tiễn tổ chức công tác kế toán tại DNNVV Việt Nam, nội
    dung và chất lượng thông tin kế toán các doanh nghiệp này cung cấp. Bên cạnh đó,
    phương pháp này cũng giúp phân tích ý kiến của các đối tượng khảo sát về định
    hướng xác lập khung pháp lý về kế toán cho DNNVV ở Việt Nam và kiểm định
    mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dung các văn bản pháp lý về kế toán
    vào các doanh nghiệp này.
    Nghiên cứu định lượng được thực hiện qua các giai đoạn: thiết kế mẫu
    nghiên cứu, thu thập thông tin từ mẫu khảo sát, phân tích dữ liệu bằng phần mềm
    xử lý SPSS 20 thông qua các bước thống kê mô tả, phân tích nhân tố khám phá và
    phân tích hồi quy. Trước hết, phân tích thống kê mô tả giúp luận án đưa ra các
    nhận định về thực tiễn tổ chức công tác kế toán tại DNNVV và chất lượng thông
    tin kế toán các doanh nghiệp này cung cấp. Bên cạnh đó, luận án còn dùng
    Independent Sample T-test để kiểm định sự khác biệt trong nhận định giữa các
    nhóm đối tượng. Trong quá trình phân tích mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến
    việc vận dụng các văn bản pháp lý tại các DNNVV Việt Nam, tác giả đã thực hiện
    kiểm định thang đo bằng hệ số tin cậy Cronbach Alpha, loại bỏ các biến có hệ số
    tương quan biến tổng nhỏ; sử dụng công cụ phân tích nhân tố khám phá (EFA -
    Exploratory factor analysis) trên SPSS 20 và loại bỏ các biến có thông số nhỏ bằng
    cách kiểm tra các hệ số tải nhân tố (Factor loading) và các phương sai trích được;
    đánh giá sự phù hợp của mô hình nghiên cứu qua hệ số KMO (Kaiser-Meyer-
    Olkin). Bước tiếp theo là kiểm định Cronbach Alpha (CRA) đối với các thang đo.
    Đây là phép kiểm định thống kê về mức độ chặt chẽ của tập hợp các biến quan sát.
    Sau đó, tác giả tiếp tục chạy mô hình hồi quy để đánh giá mức độ phù hợp của mô
    hình và xem xét ảnh hưởng của các nhân tố đến việc vận dung các văn bản pháp lý
    về kế toán tại các DNNVV Việt Nam.
    5. Những đóng góp mới của luận án
     Về mặt khoa học
    Luận án hoàn thành đã có những đóng góp về mặt khoa học như sau: 6

    - Hệ thống hóa những vấn đề lý luận chung về khung pháp lý về kế toán cho
    DNNVV ở một số quốc gia tiêu biểu trên thế giới cũng như ở Việt Nam; các nhân
    tố ảnh hưởng đến việc vận dụng các văn bản pháp lý kế toán vào công tác kế toán ở
    các DNNVV.
    - Định hướng xác lập khung pháp lý về kế toán dành riêng cho DNNVV, gồm hệ
    thống các văn bản pháp lý cần thiết và kết cấu cũng như nội dung chính của các văn
    bản đó.
    - Góp phần phát triển thang đo các nhân tố ảnh hưởng đến việc vận dụng các văn
    bản pháp lý về kế toán tại các DNNVV trong bối cảnh một quốc gia đang phát triển
    như Việt Nam.
     Về mặt thực tiễn
    - Làm rõ thực trạng công tác kế toán tại DNNVV ở Việt Nam, phân tích thực tiễn
    tình hình vận dụng các văn bản pháp lý về kế toán để tổ chức công tác kế toán tại
    các DNNVV; đồng thời phân tích nội dung và chất lượng thông tin kế toán do
    DNNVV cung cấp; qua đó giúp các cơ quan, ban ngành, nhà quản lý đánh giá tính
    hiệu quả và khả thi của các văn bản pháp lý về kế toán hiện hành đối với các doanh
    nghiệp này; giúp nhìn nhận toàn diện hơn về thông tin kế toán do DNNVV cung
    cấp cũng như nhu cầu thông tin của các đối tượng sử dụng.
    - Kết quả nghiên cứu sẽ là luận cứ khoa học có giá trị cho các nhà nghiên cứu, cơ
    quan lập pháp tham khảo trong quá trình xây dựng khung pháp lý về kế toán hoàn
    chỉnh cho DNNVV; đồng thời luận án còn đưa ra những gợi ý có ý nghĩa giúp quá
    trình triển khai vận dụng các văn bản pháp lý về kế toán vào thực tiễn tại các
    DNNVV một cách nhanh chóng và hiệu quả.
    6. Bố cục của luận án
    Kết cấu của luận án ngoài phần mở đầu giới thiệu bối cảnh nghiên cứu,
    mục tiêu, phạm vi và đối tượng nghiên cứu, tóm tắt phương pháp nghiên cứu cũng
    như những đóng góp mới của luận án; phần nội dung chính của luận án được trình
    bày thành 5 chương. Nội dung cơ bản của từng chương như sau: 7

    Chương 1: Giới thiệu tổng quan về tình hình nghiên cứu có liên quan đến
    luận án, các nghiên cứu về khung pháp lý về kế toán cho doanh nghiệp nói chung
    và DNNVV nói riêng được thực hiện ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước trên thế
    giới, từ đó rút ra nhận xét về các nghiên cứu đã công bố và xác định vấn đề cần
    tiếp tục nghiên cứu.
    Chương 2: Trình bày một số vấn đề chung về DNNVV và khung pháp lý
    về kế toán áp dụng cho DNNVV, đồng thời giới thiệu các lý thuyết nền làm cơ sở
    cho nghiên cứu. Cũng trong chương này, luận án giới thiệu tóm tắt nội dung chuẩn
    mực kế toán quốc tế áp dụng cho DNNVV và giới thiệu khung pháp lý về kế toán
    cho DNNVV ở một số quốc gia đại diện cho các khu vực địa lý và các trường phái
    kế toán khác nhau như: Mỹ, Pháp, Romania, Singapore, Trung Quốc, từ đó rút ra
    bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
    Chương 3: Xây dựng khung phân tích của luận án, trình bày từng bước
    trong quy trình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu luận án.
    Chương 4: Trình bày kết quả khảo sát về công tác kế toán của DNNVV
    trên địa bàn TP.HCM, đánh giá của các đối tượng sử dụng thông tin về chất lượng
    thông tin kế toán DNNVV cung cấp cũng như các nhân tố tác động đến việc vận
    dụng các văn bản pháp lý vào thực tiễn công tác kế toán tại các doanh nghiệp này.
    Trên cơ sở phân tích kết quả khảo sát, chương này đưa ra một số giải pháp để định
    hướng xác lập khung pháp lý về kế toán dành riêng cho DNNVV ở Việt Nam và
    các giải pháp hỗ trợ để tăng cường tính khả thi cho các văn bản này khi áp dụng
    thực tiễn.
    Chương 5: Phần kết luận nêu ra những kết quả mà luận án đã đạt được
    cũng như những hạn chế của luận án và các định hướng nghiên cứu tiếp theo.
    Phần cuối cùng của luận án là các công trình khoa học của tác giả có liên
    quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục đính kèm.



    8

    CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
    CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
    Sự phát triển của khoa học luôn có sự kế thừa, dựa trên nền tảng của những
    kết quả nghiên cứu trước đó. Việc xác lập khung pháp lý về kế toán riêng biệt cho
    DNNVV có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với bản thân doanh nghiệp mà còn
    cho cả nền kinh tế. Với ý nghĩa trên, khi thực hiện luận án này tác giả đã tiến hành
    lược khảo các công trình nghiên cứu, các bài viết tham gia các diễn đàn, hội thảo,
    luận án của các tác giả trong và ngoài nước. Với cơ sở dữ liệu hiện có, tác giả đã
    tìm ra khá nhiều nghiên cứu có liên quan và lựa chọn để tổng hợp, trình bày trong
    luận án các bài nghiên cứu có giá trị, được tham chiếu và trích dẫn nhiều, nội dung
    liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu, là các nghiên cứu của các tác giả tiêu
    biểu có kinh nghiệm và nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực này. Các nghiên cứu
    này được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau có mối liên hệ mật thiết để qua
    đó có được cái nhìn toàn diện về các nghiên cứu trước, từ đó xác định khe hỗng
    nghiên cứu.
    1.1. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến khung pháp lý về kế toán cho
    doanh nghiệp đã công bố trên thế giới
    1.1.1. Nghiên cứu liên quan đến khung pháp lý chi phối công tác kế toán ở doanh
    nghiệp nói chung
    Trước khi tổng hợp các nghiên cứu về khung pháp lý về kế toán đặc thù
    riêng cho DNNVV thì việc xem xét các nghiên cứu liên quan đến khung pháp lý
    về kế toán cho doanh nghiệp nói chung cũng không kém phần quan trọng. Theo
    thống kê của tác giả, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề này theo
    các khía cạnh khác nhau như nghiên cứu quá trình ban hành và vận dụng khung
    pháp lý về kế toán hay vấn đề áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế ở các quốc gia.
    Như chúng ta đã biết, hoạt động kế toán tại các quốc gia trên thế giới (ngoại trừ
    các quốc gia mang đậm nét đặc trưng của trường phái kế toán Châu Âu lục địa như
    Pháp, Trung Quốc, ) thì nhìn chung đều dựa trên nền tảng pháp lý là hệ thống
    chuẩn mực kế toán. Do vậy nghiên cứu về khung pháp lý kế toán thực chất là 9

    nghiên cứu về sự ra đời, các yếu tố tác động đến sự ra đời chuẩn mực kế toán cũng
    như quá trình vận dụng các chuẩn mực này vào thực tiễn. Nội dung nghiên cứu
    liên quan đến vấn đề này khá đa dạng, do vậy luận án sắp xếp kết quả các nghiên
    cứu theo từng nhóm vấn đề có liên quan như sau.
     Các nghiên cứu liên quan đến quá trình hình thành, soạn thảo và ban hành
    chuẩn mực kế toán
    Một trong những mảng đề tài mà các tác giả tập trung nghiên cứu nhiều đó
    là bàn về quá trình hình thành và ban hành khung pháp lý về kế toán. Liên quan
    đến vấn đề này, Katherine Schipper (1994) cho rằng, các nhà nghiên cứu kế toán
    có đóng góp đáng kể trong quá trình hình thành các chuẩn mực kế toán. Theo tác
    giả, các nghiên cứu về kết quả thông tin kế toán được sử dụng như thế nào, chi phí
    để tạo ra thông tin, nghiên cứu về sự lựa chọn chính sách kế toán, có ý nghĩa hết
    sức quan trọng và tác động tích cực đến quá trình hình thành chuẩn mực. Vì thế,
    các nhà lập quy ở các quốc gia cần quan tâm đến vấn đề này trong quá trình ban
    hành các văn bản pháp lý về kế toán. Một yếu tố cũng không kém phần quan trọng
    đó là những ảnh hưởng chính trị trong quá trình ban hành chuẩn mực. Roland
    Konigsgruber (2010) chỉ rõ những ảnh hưởng chính trị trong quá trình ban hành
    chuẩn mực ở Mỹ và cộng đồng Châu Âu (EU) đại diện cho hai trường phái kế toán
    là Anglo-Saxon và Châu Âu lục địa thông qua việc so sánh quy trình ban hành
    chuẩn mực kế toán ở Mỹ và EU, phân tích thủ tục làm việc qua từng khâu, vai trò
    của các bộ phận và sự can thiệp của các cơ quan có liên quan. Kết quả nghiên cứu
    cho thấy, ở các nước EU tác động của chính trị và khu vực công lên quy định kế
    toán mạnh hơn ở Mỹ thể hiện qua nhiều cách thức chi phối khác nhau. Điều này
    xuất phát từ cơ chế ban hành chuẩn mực, tính độc lập của tổ chức lập quy và đặc
    điểm văn hóa của các quốc gia thuộc hai trường phái kế toán này. Bên cạnh đó, các
    quốc gia, tổ chức đều nhận thức được vai trò của chuẩn mực kế toán trong nền
    kinh tế vì các quyết định đầu tư, phân bổ nguồn lực chủ yếu dựa trên tính đáng tin
    cậy, đầy đủ và dễ hiểu của thông tin kế toán tài chính, vì vậy quá trình ban hành
    chuẩn mực cần tham khảo ý kiến của nhiều bên liên quan (như ủy ban chứng
    khoán, các hội nghề nghiệp, ngân hàng, các nhà nghiên cứu, doanh nghiệp .) để 10

    đảm bảo nhu cầu và quyền lợi của họ được xem xét đến (Douglas P. Letsch, 2010).
    Do đó, khi nghiên cứu về quy trình ban hành chuẩn mực kế toán của Mỹ, Douglas
    P. Letsch (2010) đã tập trung vào khâu thu thập ý kiến các bên có liên quan. Theo
    tác giả, Thư lấy ý kiến (comment letters) là một công cụ quan trọng được Ủy ban
    chuẩn mực kế toán Mỹ (FASB) sử dụng trong việc phát triển hệ thống chuẩn mực
    kế toán, vì vậy cần cải tiến quy trình lấy ý kiến, mở rộng đối tượng thu thập ý
    kiến, để từ đó nhiều nhóm đối tượng chủ động tham gia vào quá trình phát triển
    các chuẩn mực kế toán. Ban hành các văn bản pháp quy đầy đủ, phù hợp không có
    nghĩa là quá trình vận dụng vào thực tiễn hoàn toàn thuận lợi mà muốn các văn
    bản này phát huy tác dụng thì cần sự hợp tác từ phía người làm công tác kế toán.
    Muốn đạt được điều này, trước hết cần tăng cường mối liên hệ giữa công tác kế
    toán với việc ban hành chuẩn mực và việc giám sát tuân thủ chuẩn mực. Những
    người làm kế toán sẽ tích cực tham gia đóng góp phản hồi cho các bản dự thảo nếu
    ý kiến của họ có tác động đến việc chỉnh sửa và nội dung chuẩn mực ban hành
    chính thức. Tiếp đó là phương thức lấy ý kiến đóng vai trò quan trọng trong việc
    tham gia ý kiến của những người làm thực tế. Những người này phải thực sự cảm
    thấy họ có cơ hội tác động đến nội dung các chuẩn mực kế toán và thực sự ý kiến
    của họ được lắng nghe chứ không phải là một chiêu trò hình thức. Mặc dù tổ chức
    ban hành chuẩn mực khó có thể tiếp thu hết các đóng góp này do chúng có thể mâu
    thuẫn với nhau nhưng ít ra họ sẽ xem xét và giải thích tại sao các ý kiến này không
    được đưa vào chuẩn mực (Sylvain Durocher & Anne Fortin, 2011) và điều này hết
    sức có ý nghĩa trong việc đảm bảo các chuẩn mực được ban hành mang tính khả
    thi cao khi áp dụng vào thực tiễn.
     Các nghiên cứu liên quan đến vấn đề vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế vào
    từng quốc gia.
    Bên cạnh chủ đề về quá trình nghiên cứu, soạn thảo và ban hành chuẩn
    mực, trong những thập niên gần đây, trong bối cảnh toàn cầu hóa nền kinh tế và xu
    hướng hội tụ kế toán quốc tế, chuẩn mực kế toán quốc tế đang ngày càng được áp
    dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia thuộc nhiều khu vực trên thế giới. Vì thế rất nhiều
    công trình đã công bố liên quan đến mảng đề tài này nghiên cứu vấn đề áp dụng 11

    chuẩn mực kế toán quốc tế vào các quốc gia. Một số nghiên cứu được thực hiện ở
    phạm vi rộng, như nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến việc áp dụng chuẩn mực
    kế toán quốc tế ở các nước đang phát triển (Daniel Zeghal & Karim Mhedhbi,
    2006), hay nghiên cứu ở phạm vi hẹp khi đề cập đến các vấn đề nảy sinh xung
    quanh việc áp dụng bộ chuẩn mực này ở từng quốc gia cụ thể như Australia
    (Wayne Lonergan, 2003), Ireland (Fennell David, 2005), Trung Quốc (Songlan
    Peng, 2005), Nhìn chung, kết quả của các nghiên cứu này cho thấy hệ thống kế
    toán, quy định pháp lý của mỗi quốc gia tồn tại nhiều điểm khác biệt so với chuẩn
    mực kế toán quốc tế và viêc tiếp cận để áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế vào
    từng quốc gia là một thách thức không nhỏ, đặc biệt là đối với các nước đang phát
    triển. Theo đó, việc áp dụng IFRS ngoài thuận lợi là triển vọng về bộ chuẩn mực
    được chấp nhận trên toàn thế giới thì còn nhiều bất lợi như những khó khăn khi áp
    dụng bộ chuẩn mực mới này, giảm vai trò của cơ quan ban hành chuẩn mực kế
    toán quốc gia, dẫn đến cơ quan này đánh mất khả năng thiết lập chuẩn mực kế toán
    độc lập, chuyển giao quyền kiểm soát việc ban hành chuẩn mực cho IASB (Wayne
    Lonergan, 2003). Hay trường hợp Trung Quốc cũng gặp những khó khăn tương tự
    trong quá trình hòa hợp và hội tụ với kế toán quốc tế (Songlan Peng, 2005); Bên
    cạnh đó, đất nước này còn gặp trở ngại lớn do đặc thù về thể chế chính trị, nhà
    nước nắm quyền kiểm soát, chi phối và ban hành các văn bản pháp quy để quản lý
    hoạt động kế toán; các quy định kế toán ở quốc gia này theo hướng cụ thể, chi tiết
    chứ không theo hướng nguyên tắc như quy định của chuẩn mực quốc tế làm cho
    việc tiếp cận chuẩn mực quốc tế càng thêm khó khăn. Ngay cả Ireland, một quốc
    gia thành viên EU cũng đối mặt với nhiều thách thức khi cộng đồng Châu Âu (EU)
    bắt buộc công ty niêm yết ở các nước thành viên EU phải lập báo cáo tài chính hợp
    nhất theo IFRS thì những khác biệt đáng kể giữa IFRS so với quy định kế toán
    hiện tại ở Ireland (Irish GAAP) (như tăng cường sử dụng giá trị hợp lý thay cho
    giá gốc, những nguyên tắc kế toán mới về hợp đồng tỷ giá tương lai, gia tăng việc
    vốn hóa chi phí, ) đã gây trở ngại cho các công ty trong nhiều vấn đề (Ireland
    Fennell David, 2005). Đồng thời, qua nghiên cứu, các tác giả cũng đã xác định
    được một số nhân tố có tác động đáng kể đến việc vận dụng chuẩn mực kế toán 12

    quốc tế vào các quốc gia như: mức độ phát triển kinh tế và giáo dục, mức độ mở
    cửa nền kinh tế, sự tồn tại của thị trường tài chính và đặc điểm trường phái kế toán
    của quốc gia, . Theo đó, những quốc gia có nền giáo dục phát triển ở mức cao, có
    thị trường vốn phát triển và thuộc trường phái Anglo-Saxon dễ dàng vận dụng
    chuẩn mực kế toán quốc tế hơn các nước khác (Daniel Zeghal & Karim Mhedhbi,
    2006). Với kết quả này, phía IASB và các tổ chức liên quan cần thể hiện rõ hơn
    nữa vai trò chủ động và hỗ trợ tích cực hơn nữa trong việc giúp đỡ các quốc gia
    đang phát triển trên lộ trình vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế để quá trình hội
    tụ kế toán quốc tế được diễn ra một cách thuận lợi.
    1.1.2. Nghiên cứu liên quan đến khung pháp lý về kế toán cho DNNVV
    Trong khoảng 10 năm trở lại đây, đặc biệt là từ khi có chuẩn mực kế toán
    quốc tế cho DNNVV (IFRS for SMEs) năm 2009, kế toán cho DNNVV là vấn đề
    được các nhà nghiên cứu quan tâm, phân tích và thảo luận sôi nổi trong nội dung
    các cuộc hội thảo, diễn đàn và các bài nghiên cứu công bố trên các tạp chí quốc tế
    uy tín. Trong quá trình thực hiện luận án này, tác giả đã tìm hiểu tổng quan các
    công trình nghiên cứu có liên quan đến văn bản pháp lý về kế toán cho DNNVV đã
    công bố trên thế giới, trong đó tập trung vào các nghiên cứu về việc ban hành quy
    định pháp lý, việc vận dụng các văn bản pháp lý về kế toán ở các DNNVV và tác
    động của việc vận dụng này cũng như vấn đề sử dụng thông tin kế toán DNNVV
    cung cấp. Các nghiên cứu này nhìn chung đều đi theo xu thế hội tụ kế toán quốc tế
    nói chung và tiến trình hội tụ ở các quốc gia nói riêng. Từ kết quả nghiên cứu, có
    thể thấy các quốc gia trên thế giới dù thuộc khu vực địa lý nào, theo trường phái kế
    toán nào đều có xu hướng hội tụ với kế toán quốc tế, tuy nhiên mức độ hội tụ khác
    nhau giữa các quốc gia, có quốc gia hoàn toàn áp dụng chuẩn mực quốc tế như
    Hàn Quốc, Malaysia, Philippine, Singapore có quốc gia lại dựa trên cơ sở chuẩn
    mực quốc tế để xây dựng riêng khung pháp lý về kế toán phù hợp với cách thức
    quản lý và đặc điểm của doanh nghiệp tại quốc gia mình, như Trung Quốc, Nhật
    Bản, Việt Nam (Venus Ibarra & Martha G.S, 2011).
     Các nghiên cứu về lợi ích mang lại và thách thức đặt ra khi vận dụng chuẩn mực
    kế toán quốc tế cho DNNVV vào từng quốc gia. 13

    Trong mảng nghiên cứu rộng lớn về xu thế hội tụ kế toán quốc tế nói chung
    và tiến trình hội tụ kế toán ở các quốc gia nói riêng, vấn đề nghiên cứu được đề cập
    nhiều nhất có lẽ là các vấn đề nảy sinh khi đưa chuẩn mực kế toán quốc tế cho
    DNNVV vào áp dụng ở từng quốc gia. Theo đó, IFRS for SMEs mang lại nhiều lợi
    ích cho cả bản thân doanh nghiệp áp dụng và cho người sử dụng thông tin kế toán.
    Chuẩn mực này đã giúp khôi phục và xây dựng lòng tin của các đối tượng sử dụng
    về nghề nghiệp kế toán, cải thiện khả năng so sánh và tính minh bạch của BCTC
    (Fazeena Fazneen Hussain et al, 2012), giúp làm giảm chi phí và thời gian kiểm
    toán, thông tin kế toán minh bạch hơn, bảo vệ quyền lợi của các đối tượng sử dụng
    thông tin (LJ Stainbank, 2010). Nhiều nhà nghiên cứu, như Hana Bohusova (2011)
    khi nghiên cứu về việc áp dụng IFRS for SMEs trên toàn thế giới hay Grosu
    Veronica & Bostan Ionel (2010) khi nghiên cứu tác động của việc vận dụng bộ
    chuẩn mực này đến hệ thống kế toán Romania cũng đưa ra kết luận tương tự.
    Không những thế, việc đưa IFRS for SMEs vào áp dụng góp phần giúp nghề
    nghiệp kế toán phát triển và cải thiện môi trường kinh doanh (Adela Deaconu et al,
    2012).
    Tuy nhiên việc áp dụng chuẩn mực quốc tế này cho các DNNVV ở nhiều
    quốc gia cũng phải đối mặt với không ít thách thức, có những yêu cầu trình bày
    của IFRS for SMEs khó có thể áp dụng cho DNNVV ở các nước đang phát triển
    hay việc hướng dẫn vận dụng IFRS for SMEs chưa thật đầy đủ gây khó khăn cho
    doanh nghiệp (Fazeena Fazneen Hussain et al, 2012). Bên cạnh đó, vẫn tồn tại
    nhiều điểm không tương đồng cả về chuẩn mực lẫn thực tiễn vận dụng ở nhiều
    quốc gia nên việc triển khai áp dụng IFRS for SMEs vào thực tiễn tại các quốc gia
    không phải là vấn đề dễ dàng (Cătălin Nicolae Albu et al, 2010). Ngoài ra, trong
    khi kế toán ở nhiều nước theo trường phái Châu Âu lục địa vốn đã quen với việc
    tuân thủ những quy định chi tiết thì khi áp dụng IFRS for SMEs sẽ gặp khó khăn
    không nhỏ vì phải thường xuyên vận dụng khả năng đánh giá và xét đoán nghề
    nghiệp (Cătălin Nicolae Albu et al, 2010). Do đó, các nhà nghiên cứu cảnh báo cần
    thận trọng từng bước trong quyết định vận dụng IFRS for SMEs cho các nước
    đang phát triển và các quốc gia nên đi theo hướng vận dụng IFRS for SMEs như là 14

    cơ sở để xây dựng riêng bộ chuẩn mực cho mỗi nước, bên cạnh đó cần có những
    điều chỉnh nhất định để tăng cường khả năng ứng dụng vào thực tiễn, phù hợp với
    nhu cầu thông tin của các đối tượng sử dụng (Fazeena Fazneen Hussain et al,
    2012).
     Các nghiên cứu về vấn đề đưa chuẩn mực kế toán quốc tế cho DNNVV vào áp
    dụng ở từng quốc gia
    Qua việc phân tích những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đặt
    ra từ việc vận dụng IFRS for SMEs, dẫn đến xuất hiện hai luồng quan điểm trái
    chiều. Một phía cho rằng việc IASB ban hành IFRS for SMEs là một hướng đi
    đúng và các quốc gia nên đưa vào áp dụng trên cơ sở nghiên cứu đầy đủ để áp
    dụng phù hợp với DNNVV ở từng quốc gia (Ha Van Wyk & J Rossouw, 2009) do
    những lợi ích từ việc áp dụng bộ chuẩn mực kế toán quốc tế cho DNNVV là không
    thể phủ nhận như đã trình bày ở trên. Kết quả khảo sát từ nhiều nghiên cứu cho
    thấy nhìn chung các doanh nghiệp đều ủng hộ việc áp dụng bộ chuẩn mực kế toán
    riêng cho DNNVV (Asuman Atik, 2010) bởi vì lợi ích từ việc có được thông tin
    kế toán tài chính kịp thời cao hơn chi phí bỏ ra để có được các thông tin đó (C.E.
    Anton & A.Trifan, 2011). Tuy nhiên cũng có luồng quan điểm trái chiều cho rằng
    IFRS for SMEs hiện nay vẫn phải tiếp tục được rút gọn, đơn giản hóa hơn nữa các
    nguyên tắc đo lường và ghi nhận mới phù hợp với đặc điểm của DNNVV (Stefan
    Bunea et al, 2012; Ha Van Wyk & J Rossouw, 2009). Theo Gregory Kenneth
    Laing (2012), việc tuân thủ theo các yêu cầu của chuẩn mực kế toán sẽ tạo ra gánh
    nặng về chi phí cho doanh nghiệp vì các doanh nghiệp nhỏ, đặc biệt là các công ty
    gia đình không có nhu cầu báo cáo tài chính cho mục đích chung theo tinh thần của
    IFRS for SMEs. Tác giả này chỉ ra các đối tượng sử dụng thông tin như ngân hàng,
    khách hàng, chủ nợ, có những yêu cầu thông tin riêng khác với các thông tin mà
    chuẩn mực kế toán buộc doanh nghiệp phải cung cấp. Do đó việc áp dụng IFRS for
    SMEs không mang lại lợi ích như mong đợi đối với các doanh nghiệp nhỏ và các
    công ty gia đình. Đồng quan điểm, Hana Bohusova (2011) cho rằng việc vận dụng
    IFRS for SMEs ở nhiều quốc gia trước hết là sẽ tốn kém chi phí và yêu cầu cần có 15

    lộ trình về thời gian do sự khác biệt về nền tảng lý thuyết, các nguyên tắc, phương
    pháp ghi nhận giữa IFRS for SMEs với quy định kế toán của từng quốc gia.
    Nói tóm lại, mặc dù có những nội dung phức tạp nhất định không thể thích
    hợp hoàn toàn với quy định kế toán ở các nước đang phát triển, hay thành ý của
    các nhà soạn thảo chuẩn mực không thỏa mãn mong muốn của người sử dụng
    thông tin, bất chấp sự khác biệt văn hóa có thể làm giảm sự tổng quát hóa của các
    chuẩn mực, thì vẫn tồn tại những tiền đề, cơ sở cho thấy IFRS for SMEs có thể
    được chấp nhận trên thế giới (Adela Deaconu et al, 2012).
     Các nghiên cứu về vấn đề vận dụng các quy định kế toán ở DNNVV và liên quan
    đến thông tin kế toán DNNVV cung cấp.
    Một vấn đề cũng khá quan trọng liên quan đến vấn đề khung pháp lý về kế
    toán cho DNNVV đó là việc vận dụng các quy định như thế nào. Nghiên cứu vấn
    đề này, Dang Duc Son (2011) tìm thấy năm nhân tố chủ yếu tác động đến việc vận
    dụng chuẩn mực kế toán ở DNNVV, trong đó: Tính bắt buộc tuân thủ, yêu cầu cải
    thiện chất lượng thông tin của các đối tượng bên ngoài là hai nhân tố chính. Bên
    cạnh đó, mối quan hệ lợi ích – chi phí, việc thiếu kỹ năng quản lý và kế toán, thiếu
    cơ sở hạ tầng cũng có tác động đến việc vận dụng các quy định và chuẩn mực kế
    toán của DNNVV. Một nghiên cứu khác cũng đã tìm ra các nhân tố tác động đến
    sự lựa chọn chính sách kế toán của DNNVV và mức độ tác động của các nhân tố
    này. Theo đó, các nhân tố chủ yếu tác động theo thứ tự mức độ ảnh hưởng là: nhu
    cầu thông tin của người sử dụng, ảnh hưởng của thuế, hình ảnh của doanh nghiệp
    đối với bên ngoài, và cuối cùng là quan điểm trung thực hợp lý (Szilveszter Fekete
    et al., 2010). Các kết quả này có giá trị tham khảo trong vấn đề nâng cao tính khả
    thi cho các quy định kế toán ban hành.
    Ở khía cạnh khác, nhiều tác giả đã đề cập đến sản phẩm đầu ra sau khi vận
    dụng các quy định pháp lý vào tổ chức thực hiện công tác kế toán, đó là thông tin
    kế toán. Các nhà nghiên cứu khá đồng quan điểm khi nghiên cứu về nhu cầu thông
    tin kế toán và việc sử dụng thông tin kế toán do DNNVV cung cấp. Jill Collis &
    Robin Jarvis (2000) nhận định, trong khi mục đích BCTC của các doanh nghiệp
    lớn là cơ sở để đánh giá trình độ lãnh đạo của ban quản lý thì đối với các doanh 16

    nghiệp nhỏ, điều này hoàn toàn không phải mà thay vào đó, báo cáo chỉ đóng vai
    trò như là cầu nối giữa chủ doanh nghiệp – nhà quản lý với ngân hàng. Ở các
    doanh nghiệp nhỏ này, phạm vi sử dụng thông tin thu hẹp đáng kể so với doanh
    nghiệp lớn, các thông tin này chủ yếu phục vụ cho ngân hàng và công tác điều
    hành quản lý (điều này cũng dễ hiểu vì nghiên cứu này được thực hiện ở Anh), do
    đó cần thiết phải có những bộ BCTC khác nhau tùy theo quy mô doanh nghiệp (LJ
    Stainbank, 2010). Mặt khác, để đáp ứng yêu cầu người sử dụng, BCTC của
    DNNVV cần đơn giản hơn so với BCTC của doanh nghiệp lớn, nhờ đó tính hữu
    ích sẽ được nâng lên (Sorin Briciu et al, 2009). Đặc biệt, thực tế tại Việt Nam cho
    thấy, đối tượng sử dụng thông tin kế toán tài chính khá hạn chế, chủ yếu là cơ quan
    thuế và các cơ quan quản lý nhà nước (Dang Duc Son et al, 2006). Kết quả khảo
    sát của nhóm tác giả này cũng phản ánh thực trạng là các đối tượng bên ngoài tỏ ra
    lo ngại về tính trung thực của thông tin do DNNVV cung cấp. Ngoài ra, bên cạnh
    các thông tin tài chính quen thuộc trên báo cáo, thông tin về dòng tiền cũng như
    các thông tin mang tính dự báo cũng được xem khá quan trọng nhưng các thông tin
    này lại không được cung cấp hoặc được cung cấp một cách sơ sài. Từ đó, nhóm tác
    giả đi tới kết luận, BCTC của DNNVV cung cấp theo quy định hiện hành (ở Việt
    Nam) không hữu ích cho việc ra quyết định, vì thế nếu các DNNVV muốn tồn tại
    và tăng trưởng trong điều kiện nền kinh tế phát triển nhanh chóng thì các doanh
    nghiệp này cần nỗ lực hơn nữa mới phần nào đáp ứng nhu cầu của các đối tượng
    sử dụng báo cáo thực sự hơn là chỉ tuân thủ đúng theo quy định như hiện nay
    (Dang Duc Son et al, 2006).
    1.2. Tổng quan các nghiên cứu liên quan đến khung pháp lý về kế toán cho
    doanh nghiệp ở Việt Nam
    1.2.1. Nghiên cứu liên quan đến khung pháp lý chi phối công tác kế toán ở doanh
    nghiệp nói chung ở Việt Nam.
    Ở Việt Nam, đã có rất nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu liên
    quan đến khung pháp lý về kế toán cho các doanh nghiệp nói chung. Nội dung các
    nghiên cứu này có thể được phân thành nhóm căn cứ vào vấn đề các tác giả đề cập. 17

     Các nghiên cứu về vấn đề hòa hợp giữa quy định kế toán Việt Nam và kế toán
    quốc tế.
    Những năm gần đây, hòa chung xu thế hòa hợp và hội tụ kế toán quốc tế,
    các nghiên cứu trong lĩnh vực kế toán ở Việt Nam cũng tập trung phản ánh nội
    dung này. Vì thế, vấn đề đầu tiên được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đó là
    xem xét sự hòa hợp giữa kế toán Việt Nam và kế toán quốc tế ở khía cạnh chuẩn
    mực hoặc khía cạnh vận dụng trong thực tiễn. Chúng ta biết rằng chuẩn mực kế
    toán Việt Nam (VAS) về cơ bản được xây dựng dựa trên chuẩn mực kế toán quốc
    tế (IAS/IFRS), theo nguyên tắc vận dụng có chọn lọc thông lệ quốc tế, phù hợp với
    đặc điểm nền kinh tế và trình độ quản lý của doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy,
    VAS đã cơ bản tiếp cận với IAS/IFRS, phản ánh được phần lớn các giao dịch của
    nền kinh tế thị trường, nâng cao tính công khai, minh bạch thông tin về BCTC của
    các doanh nghiệp (Võ Văn Nhị & Lê Hoàng Phúc, 2011). Tuy nhiên, có bằng
    chứng để kết luận rằng chuẩn mực kế toán của Việt Nam về lập và trình bày BCTC
    hợp nhất có mức độ hòa hợp thấp so với các IAS/IFRS được ban hành sau năm
    2004. Mức độ hòa hợp giảm do các bộ IAS/IFRS sau năm 2004 có những thay đổi
    đáng kể so với bộ IAS ban hành trước năm 2004 nhưng chuẩn mực kế toán của
    Việt Nam vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung tương ứng (Trần Hồng Vân, 2014). Có
    tác giả còn minh chứng điều này một cách thuyết phục bằng cách đo lường định
    lượng mức độ hài hòa giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam với chuẩn mực quốc tế để
    khẳng định còn tồn tại một khoảng cách đáng kể giữa hai bộ chuẩn mực này, đặc
    biệt là vấn đề khai báo thông tin (Phạm Hoài Hương, 2010). Đồng thời, nhiều tác
    giả cũng cho rằng VAS hiện nay vẫn bộc lộ nhiều điểm khác biệt với IAS/IFRS
    (Võ Văn Nhị & Lê Hoàng Phúc, 2011). Những điểm khác biệt này thể hiện cụ thể
    ở yêu cầu trình bày báo cáo tài chính, tính chất luật định, việc sử dụng giá gốc
    trong việc ghi nhận tài sản, (Hoàng Thị Phương Lan, 2011). Có nhiều lý do để
    giải thích cho sự khác biệt hay thiếu hòa hợp giữa VAS và IAS/IFRS, trong đó
    nguyên nhân chủ yếu là do chuẩn mực kế toán Việt Nam không có những điều
    chỉnh cần thiết để bắt kịp những thay đổi căn bản của chuẩn mực kế toán quốc tế,
    đồng thời có sự khác nhau đáng kể về cơ sở đo lường giữa hai hệ thống chuẩn 18

    mực, chuẩn mực kế toán quốc tế cũng yêu cầu khai báo thông tin nhiều hơn so với
    chuẩn mực kế toán Việt Nam (Phạm Hoài Hương, 2010). Bên cạnh đó, sự thiếu
    hòa hợp này còn bởi một số nguyên nhân như: IAS/IFRS cho phép sử dụng xét
    đoán và ước tính nhiều hơn so với VAS và những nguyên nhân thuộc về môi
    trường kế toán (như nền kinh tế thị trường ở Việt Nam còn khá non trẻ, đặc điểm
    văn hoá của người Việt Nam, đặc điểm hệ thống pháp lý ) (Võ Văn Nhị & Lê
    Hoàng Phúc, 2011). Trong một chừng mực nào đó, rõ ràng những khác biệt này có
    ảnh hưởng đến quá trình hội nhập quốc tế về kế toán của Việt Nam (Võ Văn Nhị &
    Lê Hoàng Phúc, 2011). Mặc dù hội tụ kế toán quốc tế là một xu thế tất yếu khách
    quan trong tiến trình toàn cầu hóa kinh tế và là hướng đi tích cực trong quá trình
    phát triển nhưng hội tụ toàn bộ không phải là vấn đề dễ dàng (Trần Quốc Thịnh,
    2014). Về lâu dài, để đạt được mức độ hài hòa cao với hệ thống chuẩn mực kế toán
    các nước trong khu vực và thông lệ quốc tế, cần quan tâm đến một số vấn đề cơ
    bản như: xây dựng lộ trình cụ thể để tiếp tục nghiên cứu ban hành các chuẩn mực
    kế toán còn thiếu; cấu trúc lại khung pháp lý về kế toán theo hướng không quy
    định chế độ kế toán cụ thể mà chuẩn mực kế toán trở thành cơ sở để các doanh
    nghiệp vận dụng vào công tác kế toán; tăng cường vai trò của các tổ chức nghề
    nghiệp và sự phản biện xã hội trong việc xây dựng và hoàn thiện chuẩn mực (Mai
    Ngọc Anh & Trần Thị Kim Chi, 2012).
     Các bài viết giới thiệu quy định của kế toán quốc tế về một số vấn đề cụ thể.
    Bên cạnh rất nhiều nghiên cứu về quá trình hòa hợp giữa kế toán Việt Nam
    với kế toán quốc tế, xuất hiện các bài viết mang tính giới thiệu một số vấn đề cụ
    thể trong quy định của kế toán quốc tế, đối chiếu với Việt Nam để từ đó rút ra bài
    học kinh nghiệm. Như tác giả Chúc Anh Tú giới thiệu nội dung của chuẩn mực kế
    toán quốc tế số 1 về trình bày báo cáo tài chính, những nguyên tắc kế toán cơ bản,
    cấu trúc và nội dung của các BCTC (Chúc Anh Tú, 2011). Tác giả Hà Thị Ngọc
    Hà thì lại phân tích và so sánh để chỉ ra nội dung chuẩn mực kế toán số 26 theo
    quy định hiện hành chưa cụ thể, rõ ràng và thiếu nhiều nội dung so với yêu cầu của
    chuẩn mực kế toán quốc tế số 24 – thông tin về các bên liên quan (Hà Thị Ngọc
    Hà, 2013). Hay nghiên cứu của Trần Hồng Vân tìm thấy bằng chứng để kết luận 19

    rằng đối với cùng một nhóm công ty mẹ - công ty con, thông tin được cung cấp bởi
    BCTC hợp nhất lập theo CMKT của Việt Nam và cung cấp bởi BCTC hợp nhất
    lập theo IAS/IFRS có sự khác biệt đáng kể (Trần Hồng Vân, 2014). Tác giả Chu
    Thị Bích Hạnh lại đề cập tới một vấn đề nhỏ liên quan đến một số chuẩn mực cụ
    thể khi phân tích ảnh hưởng của một số chuẩn mực kế toán đến việc xác định và
    hạch toán thuế thu nhập doanh nghiệp, như: chuẩn mực số 15 – Hợp đồng xây
    dựng, chuẩn mực số 14 – Doanh thu và thu nhập khác, chuẩn mực số 29 – Thay
    đổi chính sách kế toán, ước tính kế toán và các sai sót, (Chu Thị Bích Hạnh,
    2012).
     Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa kế toán với các chính sách khác.
    Một vấn đề nữa được đề cập trong các nghiên cứu đó là mối quan hệ giữa
    kế toán với các chính sách khác trong nền kinh tế. Theo đó, kế toán, thuế và tài
    chính là ba bộ phận có mối quan hệ thân thiết hợp thành công cụ quản lý kinh tế tài
    chính của mỗi quốc gia và của từng doanh nghiệp. Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam
    khi nghiên cứu xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán, mối quan hệ và sự liên kết
    giữa các chính sách này bị phá vỡ nên không đảm bảo sự hài hòa cao nhất giữa các
    chính sách, gây khó khăn trong quá trình áp dụng (Nguyễn Vũ Việt, 2012). Bên
    cạnh đó, một vấn đề quan trọng khi nghiên cứu về hệ thống kế toán Việt Nam là
    cần phải xác định các yếu tố có ảnh hưởng đến đặc điểm của hệ thống kế toán. Kết
    quả nghiên cứu cho thấy, các yếu tố như: hệ thống luật pháp, thuế, chế độ sở hữu
    và nguồn cung tài chính, mức độ phát triển kinh tế, sự phát triển và quy mô của các
    tổ chức nghề nghiệp kế toán, mức độ phát triển của giáo dục, hệ thống chính trị,
    văn hóa, chi phối đặc điểm hệ thống kế toán Việt Nam (Đường Nguyễn Hưng,
    2012). Do vậy, trong quá trình phát triển nền kế toán nước ta cần phải lưu ý đến
    các yếu tố này.
    Ngoài ra, các vấn đề liên quan đến khung pháp lý về kế toán cho doanh
    nghiệp còn được rất nhiều học viên cao học quan tâm nghiên cứu chọn làm đề tài
    cho luận văn thạc sỹ, cụ thể như: “So sánh và đối chiếu chuẩn mực kế toán quốc tế
    và Việt Nam trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính hợp nhất” (Nguyễn Thị
    Kim Oanh, 2010); “Vận dụng chuẩn mực kế toán Hàn Quốc để hoàn thiện chuẩn 20

    mực kế toán và hệ thống báo cáo tài chính cho doanh nghiệp Việt Nam” (Võ Duy
    Trinh, 2010); “Nhận diện những khác biệt giữa chuẩn mực hợp nhất kinh doanh
    của Việt Nam với quốc tế và định hướng hoàn thiện chuẩn mực hợp nhất kinh
    doanh của Việt Nam theo yêu cầu hội tụ quốc tế” (Đoàn Thị Mỹ Duyên,
    2012); và còn rất nhiều đề tài khác nữa. Tuy nhiên ở cấp độ đề tài thạc sĩ, các tác
    giả chỉ giải quyết một khía cạnh rất nhỏ, phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phân
    tích, suy luận nên chưa có nhiều đóng góp mới có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
    1.2.2. Nghiên cứu liên quan đến khung pháp lý về kế toán cho DNNVV ở Việt
    Nam.
    Vấn đề kế toán cho DNNVV không chỉ được các nhà nghiên cứu quốc tế
    quan tâm mà ngay tại Việt Nam, số lượng các bài viết, công trình nghiên cứu khoa
    học, luận văn, luận án về đề tài này những năm trở lại đây cũng không ngừng tăng
    lên. Các nghiên cứu này chủ yếu xoay quanh một số vấn đề như giới thiệu về
    chuẩn mực kế toán quốc tế cho DNNVV, định hướng xây dựng các văn bản pháp
    lý kế toán cho DNNVV hay nghiên cứu về việc vận dụng các văn bản pháp quy về
    kế toán tại các doanh nghiệp này. Cụ thể như sau:
     Các bài viết giới thiệu về chuẩn mực kế toán quốc tế cho DNNVV
    Trước hết, số lượng các bài viết giới thiệu các nội dung liên quan đến
    chuẩn mực kế toán quốc tế cho DNNVV (IFRS for SMEs) chiếm số lượng khá
    lớn. Theo đó, mục đích của hệ thống chuẩn mực BCTC quốc tế đối với DNNVV là
    đưa ra các quy định để thông tin kế toán có chất lượng, dễ hiểu và có khả năng so
    sánh, nhằm giúp các đối tượng tham gia trên thị trường chứng khoán và các đối
    tượng khác đưa ra các quyết định chính xác; đưa ra hướng dẫn về sự áp dụng
    chuẩn thông tin đối với các DNNVV (Chúc Anh Tú, 2010), nhiều tác giả cũng chỉ
    ra sự khác biệt giữa chuẩn mực quốc tế cho DNNVV so với bộ chuẩn mực kế toán
    cho doanh nghiệp nói chung. Các quy định của IFRS for SMEs được xây dựng trên
    cơ sở bộ chuẩn mực đầy đủ IFRS hiện hành theo hướng đơn giản hóa một số nội
    dung phức tạp mà các DNNVV không phát sinh hoặc có phát sinh nhưng ảnh
    hưởng thường không trọng yếu. Khác với bộ chuẩn mực đầy đủ xây dựng nhiều
    chuẩn mực riêng cho từng vấn đề của kế toán, IFRS for SMEs chỉ xây dựng một 21

    chuẩn mực chung duy nhất và được kết cấu theo các phần nội dung (Mai Ngọc
    Anh & Trần Thị Phương Thảo, 2013).
     Các nghiên cứu liên quan đến vấn đề xây dựng khung pháp lý về kế toán cho
    DNNVV.
    Liên quan đến vấn đề xây dựng khung pháp lý về kế toán cho DNNVV,
    cũng như nhiều nghiên cứu trên thế giới, các tác giả chủ yếu đề cập đến việc xây
    dựng chuẩn mực kế toán. Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về phương thức
    xây dựng và áp dụng chuẩn mực kế toán cho các DNNVV. Có quan điểm cho rằng
    các doanh nghiệp này áp dụng theo quy định dành cho các doanh nghiệp nói chung
    mà không phân biệt quy mô. Còn theo quan điểm khác thì vẫn áp dụng chung
    chuẩn mực nhưng cần đơn giản hóa quy định cho các doanh nghiệp này. Quan
    điểm thứ ba thì đề nghị cần xây dựng chuẩn mực riêng cho các DNNVV. Trước xu
    thế hài hòa các chuẩn mực và quy định về kế toán trên phạm vi toàn cầu, phương
    án ban hành chuẩn mực kế toán riêng áp dụng cho các DNNVV trên cơ sở chuẩn
    mực kế toán quốc tế đang được các quốc gia ưu tiên lựa chọn (Mai Ngọc Anh,
    2011). Đồng quan điểm này, tác giả Lưu Đức Tuyên (2012) nhấn mạnh, việc
    nghiên cứu và ban hành bộ chuẩn mực kế toán riêng áp dụng cho các DNNVV trên
    cơ sở chuẩn mực kế toán quốc tế là rất cần thiết, góp phần tạo điều kiện thuận lợi
    để cho công tác kế toán của các doanh nghiệp này được thực hiện tốt cũng như để
    hoàn thiện hệ thống pháp lý về kế toán của Việt Nam hiện nay theo hướng ngày
    càng phù hợp hơn với thông lệ kế toán các nước. Tuy nhiên nghiên cứu của các tác
    giả này chỉ đưa ra nhận định thông qua phương pháp tổng hợp, suy luận, chưa có
    cơ sở và luận chứng một cách chắc chắn nên tính thuyết phục của các vấn đề đưa
    ra chưa cao. Ngoài ra, các tác giả còn định hướng để xây dựng quy định kế toán về
    việc lập và trình bày hệ thống BCTC theo nhiều cấp độ quy mô: siêu nhỏ, cận nhỏ,
    nhỏ, cận vừa và vừa (Võ Văn Nhị & Nguyễn Hữu Phú, 2012) để phù hợp với đặc
    điểm của các doanh nghiệp này cũng như đặc điểm thông tin của đối tượng sử
    dụng yêu cầu. Trong quá trình xây dựng bộ chuẩn mực kế toán, nhóm soạn thảo
    chuẩn mực cần có đại diện của các nhóm lợi ích có liên quan đến doanh nghiệp,
    cần lưu ý đến đặc thù của doanh nghiệp lớn và DNNVV để xây dựng chuẩn mực 22

    phù hợp, đồng thời luôn cân nhắc đến khía cạnh lợi ích và chi phí trong khi thiết
    lập các quy định (Trần Đình Khôi Nguyên, 2011b).
     Các nghiên cứu về vấn đề vận dụng các quy định pháp lý kế toán ở DNNVV Việt
    Nam.
    Ngoài các nội dung được đề cập ở trên, vấn đề vận dụng các văn bản pháp
    lý kế toán vào thực tiễn cũng được quan tâm. Kết quả nghiên cứu cho thấy, năng
    lực kế toán viên là một trong những nhân tố ảnh hưởng đáng kể đến việc vận dụng
    chuẩn mực kế toán. Việc tăng cường công tác kiểm tra từ phía cơ quan thuế, hay
    yêu cầu BCTC phải được kiểm toán sẽ ảnh hưởng đến việc vận dụng chuẩn mực
    kế toán trong các DNNVV (Trần Đình Khôi Nguyên, 2011a). Ở một nghiên cứu
    khác, tác giả này đã phác thảo mô hình các nhân tố ảnh hưởng đến vận dụng chế
    độ kế toán trong các DNNVV tại Việt Nam bao gồm các nhân tố sau: mức độ phức
    tạp của chuẩn mực, tính độc lập về nghề nghiệp, trình độ của kế toán viên, ảnh
    hưởng của tổ chức kiểm toán hay vai trò của công tác thanh tra kiểm tra, ảnh
    hưởng của thuế đối với công tác kế toán, nhận thức của chủ doanh nghiệp, quy mô
    doanh nghiệp, khả năng sinh lời (Trần Đình Khôi Nguyên, 2010).
    Ngoài ra, mảng đề tài về kế toán cho DNNVV cũng được bản thân tác giả
    và các cộng sự đề cập một số vấn đề nhỏ trong các đề tài nghiên cứu cấp cơ sở về
    định hướng để xây dựng khung pháp lý về kế toán cho DNNVV, chuẩn mực kế
    toán cho DNNVV hay thông tin kế toán DNNVV cung cấp. Bên cạnh đó, khá
    nhiều học viên cao học khai thác một số khía cạnh liên quan để làm đề tài nghiên
    cứu cho luận văn thạc sĩ, cụ thể như: Nguyễn Thị Huyền Trâm (2007) về Tổ chức
    công tác kế toán trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, Hoàng Phú Tùng
    (2009), Một số giải pháp để hoàn thiện kế toán doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam
    hiện nay, Phạm Phú Thắng (2010), Hoàn thiện chế độ kế toán áp dụng cho
    DNNVV ở Việt Nam, Vũ Thị Ngọc Thảo (2012), Ứng dụng công nghệ thông tin
    vào kế toán và kiểm soát tại các DNNVV Việt Nam, Phạm Trà Lam (2012), Tổ
    chức hệ thống thông tin kế toán áp dụng cho DNNVV ở Việt Nam,
    1.3. Nhận xét về các nghiên cứu đã được thực hiện và vấn đề cần tiếp tục
    nghiên cứu 23

    Sau quá trình tìm hiểu, phân tích và tổng hợp các công trình đã công bố
    trên thế giới cũng như tại Việt Nam, tác giả có một số nhận định về các nghiên cứu
    này như sau:
    1.3.1. Đối với các công trình ở nước ngoài
    Khung pháp lý về kế toán bao gồm các quy định liên quan đến nhiều văn
    bản pháp lý khác nhau nhưng văn bản có tính chi phối mạnh nhất đến nội dung và
    chất lượng thông tin kế toán là hệ thống chuẩn mực kế toán áp dụng cho doanh
    nghiệp. Do vậy nội dung các công trình nghiên cứu tác giả tìm hiểu được trong
    phạm vi cơ sở dữ liệu hiện có chủ yếu liên quan đến vấn đề áp dụng chuẩn mực kế
    toán quốc tế vào các quốc gia và tác động của nó, hoặc đi vào phân tích một số
    nhân tố tác động đến quá trình ban hành chuẩn mực, Các nghiên cứu này thường
    gắn liền với các nước thị trường phát triển, hoặc gắn với đặc thù kinh tế xã hội, với
    nền chính trị và văn hóa đặc trưng của quốc gia mà tác giả nghiên cứu. Do vậy, kết
    quả của những nghiên cứu này chỉ phù hợp với một số quốc gia nhất định, điều
    kiện nghiên cứu và kết quả của một số nghiên cứu còn khá xa rời với Việt Nam.
    Liên quan đến khung pháp lý về kế toán cho DNNVV, các nghiên cứu tập trung
    phần lớn vào vấn đề áp dụng chuẩn mực kế toán cho DNNVV ở các quốc gia, cụ
    thể là điều kiện để vận dụng IFRS for SMEs, tác động của việc vận dụng chuẩn
    mực kế toán quốc tế đối với hệ thống kế toán của mỗi quốc gia cũng như tiến trình
    hội nhập với kế toán quốc tế của các quốc gia. Khá nhiều nghiên cứu tập trung vào
    các nước có hệ thống kế toán phát triển ở mức độ cao. Đối với thị trường chuyển
    đổi như Việt Nam, số lượng các nghiên cứu về khung pháp lý về kế toán cho
    DNNVV được công bố không nhiều. Trong các nghiên cứu mà luận án tổng hợp,
    có thể thấy chủ đề được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đó là liên quan đến vấn
    đề vận dụng các văn bản pháp lý, điều này chứng tỏ việc đưa các văn bản pháp lý
    vào thực tiễn là một khâu hết sức quan trọng để từ đó các văn bản này phát huy tác
    dụng, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cho bản thân doanh nghiệp, các đối tượng
    sử dụng thông tin nói riêng và toàn xã hội nói chung. Bên cạnh đó, một trong
    những chức năng chính của kế toán là cung cấp thông tin và sản phẩm của kế toán
    là các báo cáo nhằm cung cấp thông tin hữu ích cho các đối tượng sử dụng. Do đó, 24

    việc nghiên cứu để xác định rõ các đối tượng sử dụng thông tin kế toán của
    DNNVV và nhu cầu về thông tin của họ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quá
    trình nghiên cứu xác lập khung pháp lý về kế toán cho các doanh nghiệp này.
    Chính vì lẽ đó mà các nghiên cứu về mảng đề tài này cũng chiếm số lượng đáng
    kể.
    Về phương pháp nghiên cứu, nhiều công trình được thực hiện hết sức công
    phu như nghiên cứu của như Jill Collis & Robin Jarvis về cách thức chủ doanh
    nghiệp – nhà quản lý của các doanh nghiệp nhỏ ở Anh sử dụng thông tin kế toán
    có cỡ mẫu lên tới 2288 doanh nghiệp, với cơ sở lý thuyết chặt chẽ, dữ liệu thu thập
    được phân tích kỹ nên kết quả nghiên cứu mang tính thuyết phục cao (Jill Collis &
    Robin Jarvis, 2000); hay nghiên cứu của nhóm tác giả Daniel Zeghal và Karim
    Mhedhbi (2006) về các nhân tố tác động đến việc vận dụng chuẩn mực quốc tế ở
    các nước đang phát triển đã khảo sát phạm vi rất rộng ở 64 quốc gia thuộc nhóm
    các nước đang phát triển, do đó kết luận đưa ra từ nghiên cứu này rất đáng tin cậy
    và có giá trị tham khảo cho nhiều nghiên cứu sau đó. Tuy nhiên, ở một số nghiên
    cứu, cơ sở để tác giả đưa ra các nhận định này chỉ dựa trên lập luận, phân tích và
    nhận định chủ quan của bản thân nên tính thuyết phục của bài viết chưa cao (như
    bài của Wayne Lonergan, 2003). Hay một vài tác giả chủ yếu sử dụng phương
    pháp so sánh, phân tích, diễn giải nên tính khách quan và tính thuyết phục của bài
    viết còn hạn chế (như bài của Fennell David, 2005).
    Mặc dù có những điểm không phù hợp với đặc thù kinh tế xã hội của Việt
    Nam, hoặc nhiều nghiên cứu được thực hiện trong điều kiện môi trường luật pháp
    không tương đồng với Việt Nam nhưng qua những nghiên cứu của các tác giả
    nước ngoài, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong
    việc nghiên cứu xác lập khung pháp lý về kế toán áp dụng cho doanh nghiệp nói
    chung và DNNVV nói riêng. Nhiều kết quả thu được từ những công trình nghiên
    cứu này (như những lợi ích và trở ngại khi vận dụng chuẩn mực kế toán quốc tế,
    quy trình ban hành chuẩn mực, sự tham gia của người làm kế toán trong quá trình
    ban hành văn bản pháp quy, các nhân tố ảnh hưởng đến quá trình vận dụng chuẩn
    mực kế toán ) rất đáng để các nhà lập quy quan tâm trong quá trình ban hành các 25

    văn bản pháp lý về kế toán, đặc biệt là vấn đề nghiên cứu ban hành hệ thống các
    chuẩn mực kế toán cho DNNVV cũng như lộ trình phát triển hệ thống kế toán
    quốc gia theo xu hướng hội tụ kế toán quốc tế.
    1.3.2. Đối với công trình ở Việt Nam
    Qua phần tác giả tổng hợp ở trên, có thể thấy hầu hết các công trình nghiên
    cứu đi vào tìm hiểu, đánh giá các quy định kế toán được Nhà nước ban hành cũng
    như việc áp dụng các quy định vào thực tế công tác kế toán ở doanh nghiệp. Bên
    cạnh đó, các tác giả nghiên cứu cũng đề cập nhiều khía cạnh khác nhau trong quá
    trình hòa hợp, hội tụ kế toán Việt Nam với kế toán quốc tế, những điều kiện để có
    thể hòa hợp và hội tụ, thực tiễn quá trình hòa hợp và hội tụ cũng như những tác
    động của quá trình này và nhiều vấn đề khác có liên quan. Đối với DNNVV, có
    khá nhiều nghiên cứu được thực hiện liên quan đến hoạt động kế toán của các
    doanh nghiệp này, tuy nhiên các bài báo, đề tài nghiên cứu, các luận văn chỉ đi vào
    khai thác một số khía cạnh rất nhỏ trong mảng đề tài về kế toán cho DNNVV. Tuy
    nhiên chúng tôi thấy thiếu vắng hẳn mảng nghiên cứu về quy trình ban hành khung
    pháp lý, ảnh hưởng của các yếu tố đến quá trình ban hành, .có thể do đặc điểm của
    Việt Nam các văn bản pháp quy về kế toán đều do cơ quan Nhà nước ban hành để
    bảo đảm yêu cầu về mặt quản lý, vì thế vấn đề này khá nhạy cảm và khó tiếp cận.
    Nhìn chung các tác giả chỉ mới dừng lại ở việc giới thiệu về chuẩn mực kế toán
    quốc tế cho DNNVV, so sánh, phân tích, đối chiếu giữa các hệ thống chuẩn mực,
    hay chỉ so sánh một vài chuẩn mực cụ thể, các ý kiến đưa ra dựa trên góc nhìn chủ
    quan của tác giả (như bài viết của các tác giả Chúc Anh Tú, 2010; Hà Thị Ngọc
    Hà, 2013). Từ kết quả nghiên cứu, một số tác giả đưa ra giải pháp chung mang tính
    định hướng cho việc hoàn thiện các văn bản pháp lý, chưa đi vào giải pháp cụ thể
    mang tính khả thi.
    Về phương pháp nghiên cứu, ngoài một vài nghiên cứu sử dụng phương
    pháp định lượng, mang lại kết quả nghiên cứu đáng tin cậy, có ý nghĩa cao (như
    nghiên cứu của Trần Đình Khôi Nguyên, 2011a); còn đa số các tác giả chỉ sử dụng
    phương pháp phân tích, so sánh, diễn giải nên tính đáng tin cậy của kết quả nghiên
    cứu còn hạn chế, kết luận đưa ra còn mang tính chủ quan. Một vài nghiên cứu gặp 26

    hạn chế về đối tượng khảo sát trên địa bàn hẹp nên chưa có tính tổng quát cao.
    Nhiều đề tài, bài viết mang nặng tính ứng dụng (như đề tài nghiên cứu cấp cơ sở
    của Võ Văn Nhị & Nguyễn Hữu Phú, 2012).
    Kết quả tổng hợp từ các công trình nghiên cứu trong nước đã công bố, có
    thể thấy thiếu vắng các công trình chuyên sâu, với phương pháp thực hiện đáng tin
    cậy để nghiên cứu toàn diện về khung pháp lý về kế toán áp dụng cho DNNVV.
    Do vậy, có thể khẳng định đây là mảng yếu và là khoảng trống trong nghiên cứu
    kế toán ở Việt Nam rất cần được bổ sung bởi các nghiên cứu trong thời gian tới.
    Mặc dù vậy, những nghiên cứu đã công bố trước đây giúp tạo ra một số nền tảng lý
    luận và thực tiễn để trên cơ sở đó chúng ta có thể nghiên cứu và tiếp tục xây dựng,
    hoàn thiện khung pháp lý về kế toán áp dụng cho DNNVV ở Việt Nam.
    1.4. Xác định vấn đề nghiên cứu
    Trong bối cảnh trên thế giới cũng như ở Việt Nam trong những năm gần
    đây, các DNNVV ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Tuy nhiên
    các văn bản pháp lý chi phối hoạt động kế toán của các doanh nghiệp này ở Việt
    Nam được đánh giá là chưa hoàn chỉnh và còn tồn tại khá nhiều bất cập. Kết quả từ
    các nghiên cứu được tổng hợp cho thấy rất nhiều khó khăn mà các DNNVV gặp
    phải khi thiết lập BCTC theo chuẩn mực kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp nói
    chung, các kết quả này cũng cho thấy đối tượng sử dụng thông tin tài chính và nhu
    cầu thông tin kế toán khác biệt của các DNNVV. Hiện nay theo quan điểm của hội
    đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) và đa số các quốc gia thì việc ban hành
    quy định kế toán dành riêng cho DNNVV thật sự cần thiết, đặc biệt là từ năm 2009
    khi IASB ban hành IFRS for SMEs, một loạt quốc gia đã nghiên cứu áp dụng theo
    nhiều mức độ khác nhau (tính đến tháng 9/ 2011, đã có 74 quốc gia quy định áp
    dụng hoặc công bố kế hoạch áp dụng trong vòng 3 năm tới (Mai Ngọc Anh & Trần
    Thị Phương Thảo, 2013)). Nếu khung pháp lý về kế toán cho DNNVV được
    nghiên cứu, soạn thảo, ban hành một cách khoa học, hoàn chỉnh và phù hợp thì sẽ
    có tác dụng thúc đẩy công tác kế toán ở các doanh nghiệp này đi vào thực chất để
    tạo ra thông tin kế toán có chất lượng, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của các
    đối tượng sử dụng khác nhau. Đặc biệt là tăng cường được tính hiệu lực của các 27

    quy định pháp lý về kế toán vốn lâu nay được quản lý khá lỏng lẻo và khắc phục
    tính thiếu nghiêm túc trong quá trình vận dụng các văn bản pháp lý do tính khoa
    học và tính thực tiễn của những quy định này còn nhiều hạn chế.
    Thông qua việc tổng kết các vấn đề nghiên cứu đã công bố trên phạm vi
    quốc tế cũng như qua quá trình tổng hợp các bài viết, đề tài nghiên cứu của các tác
    giả trong nước, đồng thời, với những vấn đề nhìn nhận được về hạn chế, khiếm
    khuyết trong khung pháp lý áp dụng cho DNNVV, và xuất phát từ quá trình phân
    tích ở trên, tác giả cho rằng vấn đề xác lập khung pháp lý về kế toán cho DNNVV
    là hết sức cần thiết với thực tiễn Việt Nam hiện nay, bên cạnh đó cần phối hợp
    nhiều yếu tố để giúp các văn bản pháp lý này phát huy hiệu quả trong thực tiễn. Để
    đạt được mục tiêu lớn này, luận án xác định một số vấn đề cần giải quyết cụ thể
    như sau:
    1. Đánh giá thực trạng vận dụng các văn bản pháp lý kế toán vào tổ chức công tác
    kế toán tại các DNNVV trong thời gian gần đây để chỉ ra sự cần thiết phải có khung
    pháp lý về kế toán áp dụng riêng cho DNNVV ở Việt Nam.
    2. Khảo sát nhu cầu thông tin của các đối tượng sử dụng khác nhau kết hợp với
    những đánh giá của các đối tượng sử dụng thông tin về nội dung và chất lượng
    thông tin kế toán do DNNVV cung cấp để định hướng xác lập khung pháp lý về kế
    toán dành riêng cho các doanh nghiệp này, đảm bảo cung cấp thông tin đầu ra thích
    hợp với nhu cầu của các đối tượng sử dụng.
    3. Nghiên cứu khung pháp lý về kế toán cho DNNVV ở một số quốc gia để từ đó
    tham khảo cho việc nhận định và xác lập một cách tổng thể khung pháp lý về kế
    toán hoàn chỉnh, phù hợp với DNNVV ở Việt Nam. Nội dung khung pháp lý được
    xác lập mang tính tổng quát, làm cơ sở cho việc thực hiện nghiên cứu sâu từng vấn
    đề có liên quan thông qua các nghiên cứu tiếp theo.
    4. Nhận diện mô hình các nhân tố tác động đến việc áp dụng các văn bản pháp lý
    vào thực tiễn và làm rõ mức độ tác động của các nhân tố này, từ đó đề xuất các giải
    pháp góp phần đưa các văn bản này áp dụng vào thực tiễn một cách nhanh chóng và
    hiệu quả. 28

    TÓM TẮT CHƯƠNG 1
    Kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình đã công bố trên thế giới cũng
    như ở Việt Nam, nhìn nhận những kết quả đạt được cũng như các hạn chế, khiếm
    khuyết của các nghiên cứu đã thực hiện có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc
    xác định mục tiêu nghiên cứu của luận án. Do đó trong chương này tác giả lược
    khảo các nghiên cứu liên quan đến khung pháp lý chi phối công tác kế toán ở doanh
    nghiệp nói chung, DNNVV nói riêng đã công bố trên thế giới cũng như ở Việt
    Nam. Từ đó xác định khe hổng nghiên cứu và các vấn đề cần tiếp tục thực hiện, làm
    cơ sở xác định mục tiêu nghiên cứu của luận án.



















    29

    CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ KHUNG PHÁP LÝ KẾ TOÁN CHO
    DNNVV
    Chương này sẽ trình bày một số vấn đề chung như khái niệm, vai trò của
    DNNVV, đặc điểm về thông tin kế toán cũng như hệ thống văn bản pháp lý dành
    cho các doanh nghiệp này. Ngoài ra, nội dung chương này sẽ điểm lại những nét cơ
    bản trong quy định của kế toán quốc tế áp dụng cho DNNVV và khung pháp lý về
    kế toán cho các doanh nghiệp này ở một số quốc gia tiêu biểu cũng như ở Việt
    Nam, từ đó rút ra những kết luận quan trọng, làm cơ sở cho những định hướng và
    giải pháp đưa ra ở chương sau của luận án. Phần cuối chương sẽ đề cập đến các lý
    thuyết nền luận án vận dụng khi nghiên cứu xác lập và áp dụng khung pháp lý về kế
    toán cho DNNVV ở Việt Nam.
    2.1. Một số vấn đề chung về DNNVV và khung pháp lý về kế toán áp dụng cho
    DNNVV.
    2.1.1. Định nghĩa về DNNVV và vai trò của DNNVV đối với nền kinh tế.
    2.1.1.1. Định nghĩa về DNNVV
    Vai trò quan trọng của DNNVV được công nhận trên toàn thế giới, tuy nhiên
    để thống nhất định nghĩa thế nào là một DNNVV là một việc khó khăn vì mỗi quốc
    gia có một định nghĩa riêng. Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về DNNVV được đưa
    ra dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau, do đó chưa thể có một định nghĩa thống nhất
    được chấp nhận về DNNVV (Storey, 1994, theo Edmore Mahembe, 2011). Quan
    điểm của hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế cho rằng, DNNVV là những doanh
    nghiệp không phải là công ty đại chúng, phát hành BCTC vì mục đích chung cho
    các đối tượng sử dụng bên ngoài doanh nghiệp (IASB, 2009). Trong khi đó, đối với
    Mỹ, doanh nghiệp nhỏ là những doanh nghiệp có số lao động dưới 100 trong khi
    doanh nghiệp quy mô vừa có không quá 500 lao động. Còn theo quy định của Ủy
    ban châu Âu (The Recommendation of the European Commission 2003/361/EC,
    tháng 5/2003) thì DNNVV được định nghĩa là những doanh nghiệp mang các đặc
    điểm: ít hơn 250 lao động, doanh thu dưới 50.000 EUR/năm và tổng tài sản trên
    bảng cân đối kế toán không quá 43 triệu EUR, trong đó những doanh nghiệp có 30

    dưới 10 lao động được coi là siêu nhỏ, có khoảng từ 10 đến dưới 50 lao động là
    doanh nghiệp quy mô nhỏ và có khoảng từ 50 đến 250 lao động là doanh nghiệp có
    quy mô vừa. Theo một tài liệu thu thập được, tác giả đã tổng hợp lại điều kiện để
    một doanh nghiệp được xem là DNNVV ở một số quốc gia (xem phụ lục 4).
    Ở Việt Nam, theo Nghị định 56/2009/NĐ-CP, DNNVV được định nghĩa là
    cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành
    ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn hoặc số lao động bình quân
    năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên) (xem phụ lục 5). Tuy nhiên, theo tác giả,
    nếu chỉ dựa vào tiêu chí giá trị tổng nguồn vốn để phân loại doanh nghiệp như trên
    thì không phản ánh đúng quy mô doanh nghiệp vì trong tổng nguồn vốn trên bảng
    cân đối kế toán bao gồm vốn chủ sở hữu và cả nợ phải trả mà nợ phải trả lại là
    nghĩa vụ doanh nghiệp phải cam kết thanh toán nên tiêu chí phân loại này sẽ dẫn
    đến nhiều bất cập và không hợp lý. Do vậy, theo quan điểm của tác giả, chỉ nên dựa
    vào số lượng lao động để xem xét quy mô doanh nghiệp sẽ phản ánh đúng thực chất
    hơn.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...