Thạc Sĩ Điều tra và thiết kế xây dựng hệ thống mô hình canh tác bền vững trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng n

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 6/12/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Điều tra và thiết kế xây dựng hệ thống mô hình canh tác bền vững trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng nơi đất cao nhiều cát thuộc vùng bảy núi An Giang
    3
    LỜI NÓI ĐẦU
    Vùng núi Dài gồm 3 xã Lương Phi, Lê Trì, Châu Lăng và Thị trấn Ba Chúc thuộc huyện
    Tri Tôn là vùng bán sơn địa, đất đai không được phì nhiêu như đất ở đồng bằng của tỉnh An
    Giang. Vì thế nó có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển kinh tế-xã hội của vùng nói riêng và
    toàn khu vực Bảy Núi nói chung.
    Trước đây, trong thời kỳ còn chiến tranh, vì là vùng tranh chấp nên đời sống nhân dân
    quá khó khăn. Đến nay, sau hơn 30 giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quê hương miền núi
    nầy đã có những sự thay đổi to lớn về hạ tầng cơ sở cho đến sản xuất nông nghiệp và đang
    hướng đến một nền nông nghiệp-du lịch sinh thái bền vững.
    Tuy nhiên, trong quá trình phát triển sản xuất hướng đến một nền nông nghiệp bền vững
    còn có những vấn đề bất cập cần phải quan tâm giải quyết. Đó là xu hướng độc canh cây lúa
    đang thống trị ở một bộ phận lớn dân cư và các cấp lãnh đạo địa phương vì phát triển cây lúa tỏ
    ra dễ dàng hơn các loại hoa màu khác.Thứ hai, năng suất, sản lượng cây trồng còn thấp so với
    các vùng khác do tính chất đất đai kém màu mỡ hạn chế. Thứ ba, việc thiếu nước tưới trong
    năm, đặc biệt ở mùa khô là một yếu tố quan trọng hàng đầu làm giới hạn việc thâm canh tăng vụ,
    không phát huy được hết sức sản xuất của lao động nông thôn. Từ đó, tồn tại tình trạng một bộ
    phận dân cư dưới mức ngưỡng nghèo và tái nghèo còn phổ biến ở vùng nầy. Ngoài ra, tập quán
    không dùng phân chuồng, phân xanh, phân ủ để trả lại cho đất những chất do thu hoạch cây
    trồng lấy đi mà chỉ dùng phân hóa học làm cho đất ngày càng xấu hơn ảnh hưởng nghiêm trọng
    đến sự bền vững của môi trường.
    Từ những suy nghĩ trên, nhu cầu cần phải có những nghiên cứu cơ bản về kinh tế hộ, các
    hệ thống canh tác hiện hành, những khó khăn thuận lợi đối với nông hộ đang trực canh, những
    ưu nhược điểm của điều kiện môi trường, cơ hội và tiềm năng phát triển của vùng, những nghiên
    cứu về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, những biện pháp làm giàu đất trồng giúp khắc
    phục sự xuống cấp và suy kiệt của môi trường là những việc làm cần thiết và cấp bách.
    Xuất phát từ cách đặt vấn đề như thế, quá trình nghiên cứu chia thành 3 giai đoạn. Đầu
    tiên, tìm hiểu tổng quát về hiện tình kinh tế hộ và các hệ thống canh tác phổ biến cùng với các
    mô hình tiên tiến đang được thực hiện tại vùng, bằng các phương pháp tiếp cận nông dân và
    phỏng vấn kinh tế hộ. Kế đến, khảo sát thí điểm các nông hộ có mô hình canh tác tiên tiến, hiệu
    quả cao đồng thời đúc rút ưu khuyết điểm làm cơ sở để nhân rộng mô hình. Cuối cùng, triển khai
    thực hiện các thử nghiệm về chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cũng như các mô hình có sử
    dụng phân bón từ nguồn gốc hữu cơ bảo vệ môi trường bền vững nhằm khuyến cáo nông dân
    4
    TÓM TẮT
    Nhằm mục đích tìm hiểu về tình hình kinh tế hộ và hiệu quả kinh tế-môi trường của mô
    hình hệ thống canh tác trên vùng đất xám nhiều cát 2 xã và 1 thị trấn điểm tại khu vực Núi Dài
    thuộc huyện Tri Tôn An Giang, cuộc nghiên cứu đã được thực hiện trong vòng 2 năm 2004-2005
    để giải đáp vấn đề trên.
    Bằng cách dùng các công cụ của phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của
    nông dân (PRA), phương pháp phỏng vấn nông hộ, phỏng vấn nhóm am hiểu sự việc (KIP) và
    bằng quan sát trực quan, cuộc nghiên cứu đã tiến hành 3 hội thảo với qui mô trung bình 20 nông
    dân đại diện ở 3 điểm xã, thị trấn cùng với 4 cuộc phỏng vấn các cấp lãnh đạo nông nghiệp
    huyện, xã để tìm hiểu tổng quan về vùng nghiên cứu. Phỏng vấn 273 hộ nông dân gồm 3 nhóm
    giàu, nghèo , trung bình theo tiêu chuẩn đánh giá của địa phương, được phân phối đều về các ấp,
    khóm thuộc 3 điểm nghiên cứu với khoảng cách tối thiểu là 10 hộ. Tổng hợp và phân tích số liệu
    thống kê mô tả bằng chương trình Excel với các số trung bình, tối đa, tối thiểu.
    Kết quả cho thấy nguồn lực nông hộ đáp ứng tương đối tốt cho nhu cầu sản xuất.
    Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên, vùng nghiên cứu chia thành 2 tiểu vùng rõ rệt. Vùng ruộng
    trên chỉ dựa vào nguồn nước mưa để tưới nên hàng năm chỉ sản xuất được 1 vụ nên kinh tế hộ
    khó khăn. Trái lại, hộ nào có đất ở ruộng bưng hoặc có đất ở 2 nơi thì cuộc sống khá giả hơn. Cơ
    cấu thu nhập hộ do sản xuất nông nghiệp chiếm trên 85% so với phi nông nghiệp, trong đó trồng
    trọt 84%, chăn nuôi xấp xỉ 16%. Thu nhập của nhóm hộ nghèo dưới ngưỡng nghèo
    200.000đ/tháng. Nhóm hộ trung bình có thu nhập khá hơn nhưng phần dư không nhiều trong khi
    đó nhóm giàu cách biệt xa với 2 nhóm kia với thu nhập và phần dư cao hơn 10 lần.
    Mô hình HTCT ruộng trên hiện nay chỉ 1 vụ với các loại cây trồng như lúa mùa, lúa Hè-
    Thu, củ sắn, củ gừng, khoai mì, đậu xanh, đậu phộng, năng suất cây trồng thấp, thu nhập trung
    bình 20 triệu đồng/ha/năm. Gừng và củ sắn cao hơn ( 81và 32 triệu đồng), nhưng chỉ số lợi tức
    biên và hiệu quả đồng vốn không được cao lắm.
    Mô hình HTCT ruộng bưng trong đê bao vững chắc gồm 2 vụ lúa, 3 vụ lúa, 2 luá 1 màu
    là đậu xanh, dưa hấu với thu nhập cao trên 40 triệu đồng. Ruộng bưng không có đê bao thường
    là 2 vụ gồm Hè –Thu sớm và cây vụ Đông như đậu xanh, dưa hấu Tết với thu nhập trung bình
    trên dưới 25 triệu đồng.
    Các mô hình đã được thiết kế và đề xuất căn cứ vào các tiêu chí của Nhà nước về phát
    triển HTCT chuyển đổi bền vững, hiệu quả cao như sau:
    - Ruộng trên có 3 mô hình: (1)Lúa HT - Đậu phộng vụ Đông; (2) Đậu phộng (Đậu xanh)
    HT -Trồng cỏ nuôi bò (3) Đậu xanh HT – Lúa Nàng nhen mùa – Cây phân xanh với thu nhập
    tuần tự là 20; 18; 25 triệu đồng/ha/năm
    - Ruộng bưng có đê bao 2 mô hình[​IMG]1) Hai vụ lúa ĐX- HT- Đậu nành vụ Đông (2) Hai
    vụ lúa HT-TĐ – Dưa hấu Tết với thu nhập tuần tự là 41; 34 triệu đồng/ha/năm
    - Ruộng bưng không đê bao: (1) Lúa HT – Dưa hấu vụ Đông (2) Lúa mùa – Dưa hấu Tết
    với thu nhập tuần tự là 27; 74 triệu đồng/ha/năm
    Khó khăn lớn nhất là vốn đầu tư cho trồng trọt và chăn nuôi bò cần phải được quan tâm
    đúng mức. Kế đến là nước tưới cho tiểu vùng ruộng trên. Nếu giải quyết được nước tưới cho
    vùng nầy bằng cách xây dựng 2 hồ chứa nước lớn Ô vàng (Ba Chúc), Ô Tà Sóc (Lương Phi)
    thuộc núi Dài sẽ mở ra khả năng thâm canh, tăng vụ tạo điều kiện cho các nông hộ vươn lên làm
    giàu đồng thời phát triển du lịch sinh thái, danh lam thắng cảnh của thánh địa đạo Hiếu Nghĩa
    góp thêm công ăn việc làm cho người dân sung túc hơn. 5
    KÝ HIỆU VÀ VIẾT TẮT
    ĐBSCL Đồng Bằng Sông Cửu Long
    ĐX Đông Xuân
    HT Hè Thu
    HQKT Hiệu quả kinh tế
    HTCT Hệ thống canh tác
    KHKT Khoa học kỹ thuật
    MHCT Mô hình canh tác
    MBCR Marginal Benefit Cost Rate: Thu nhập biên hay Lợi tức biên
    MRCR Marginal Revenue Cost Rate: Doanh thu biên
    M Mùa
    NN Nông nghiệp
    PRA Participatory Rural Appraisal: Phương pháp đánh giá nông thôn có sự
    tham gia của nông dân
    PTNT Phát triển nông thôn
    RAVC Return above variable cost: Thu nhập trên biến phí
    SALT1 Sloping Argicultural Land Technology: kỹ thuật canh tác nông nghiệp đất dốc
    SALT2 Simple Agro-livestock Technology: kỹ thuật canh tác nông súc đơn giản
    SALT3 Sustainable Agroforest Land Technology: kỹ thuật canh tác nông - lâm kết hợp
    bền vững
    SALT4 Small Agro-fruit Livelihood Technology: kỹ thuật sản xuất nông nghiệp kết hợp
    với cây ăn quả quy mô nhỏ
    SWOT Strenght Weak Opportunity Threat: Phân tích mạnh, yếu, cơ hội và rủi ro
    TĐ Thu Đông
    TT Thị Trấn
    UBND Ủy Ban Nhân Dân 6
    CHƯƠNG I
    MỞ ĐẦU
    Vùng đất cao nhiều cát ở Bảy Núi thuộc 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên (An Giang) là một
    vùng có tập quán trồng 1 vụ lúa mùa nhờ nước trời nên năng suất rất thấp hoặc sống nhờ vào
    làm rẫy trồng màu. Chung quanh nhà có trồng thêm cây Tầm vông, xoài Thanh Ca và một vài
    loại cây khác làm nguồn thu nhập phụ.
    Vùng nghiên cứu gồm 2 xã Lương Phi, Lê Trì và thị trấn Ba Chúc có đến 24% dân số
    thuộc người Khmer, số hộ người Khmer chiếm 23%. Đặc biệt xã Lê Trì hộ người Khmer chiếm
    đến 53% và chiếm 28,8% dân số.
    Do đặc tính đất xám nghèo dinh dưỡng, vùng ruộng trên nước lũ hằng năm không ngập
    đến nên việc canh tác lệ thuộc vào nước mưa và nguồn nước ngầm rất hạn chế nên chỉ trồng
    được một vụ lúa hoặc màu trong năm. Nguồn thu của nông hộ chỉ nhờ vào một vụ lúa hoặc rau
    màu và được tăng thêm nhờ vào thu nhập của xoài, tầm vông. Vùng ruộng bưng đất thấp nước lũ
    hằng năm đều ngập và đã có các hệ thống dẫn nước từ kinh Vĩnh Tế và kinh Tám ngàn vào từ
    giữa thập niên 90 đến nay nên đã có thể tăng lên 2 vụ lúa là phổ biến; một số ít hộ trồng 1 lúa 1
    màu và cũng đã có những hộ tăng lên 3 vụ ở nơi có đê bao chủ động được nước tưới. Nhìn
    chung, hệ thống canh tác của vùng nghiên cứu vẫn còn là độc canh cây lúa.
    Trước tình hình giá lúa gạo, lương thực bấp bênh trong những năm gần đây khiến cho các
    hộ lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế. Do vậy, tìm giải pháp để phá thế độc canh cây lúa
    đồng thời tăng thu nhập cho các hộ nông dân là thực sự cần thiết.
    Theo xu thế chung của đất nước, yêu cầu chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp nông thôn mà
    trong đó sự chuyển đổi cây trồng sang một hệ thống canh tác mới đa canh bền vững, có hiệu quả
    là một yêu cầu khách quan và bức xúc. Điều này cũng nhằm mục đích tránh bị động vào giá lúa
    gạo và cũng nhằm nâng cao mức sống cho nông hộ. Tỉnh đã triển khai một số chương trình hệ
    thống canh tác cho 2 huyện miền Núi nhằm vào mục đích chuyển đổi cơ cấu cây trồng theo
    hướng có lợi cho người nông dân.
    A. MỤC TIÊU VÀ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
    I. MỤC TIÊU
    Đề tài” Điều tra và thiết kế xây dựng mô hình hệ thống canh tác bền vững trong
    chuyển đổi cơ cấu cây trồng nơi đất cao nhiều cát thuộc vùng Bảy Núi An Giang.” được
    thực hiện nhằm các mục tiêu tổng quát là tập trung vào nghiên cứu các mô hình tiên tiến có
    hiệu quả kinh tế so với mô hình trồng đại trà là 1 hoặc 2 vụ lúa để làm cơ sở cho việc thiết kế
    xây dựng các mô hình hiệu quả hơn.
    Mục tiêu cụ thể gồm có:
    - Đánh giá tình hình kinh tế hộ và hiệu quả kinh tế-tài chính của các hộ đang thực hiện các
    mô hình canh tác đại trà và tiên tiến.
    - So sánh và tìm ra những mô hình tiên tiến hiện có mang tính bền vững và hiệu quả cao.
    - Thiết kế xây dựng ít nhất 2 mô hình canh tác đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi cơ cấu
    cây trồng của vùng nghiên cứu.
    II. NỘI DUNG 7
    - Dùng các phương pháp nghiên cứu hệ thống canh tác như phiếu phỏng vấn nông hộ,
    PRA, SWOT, phỏng vấn chuyên gia, quan sát thực tế để điều tra và đánh giá tình hình kinh tế
    hộ, phân loại thành 3 nhóm hộ giàu, trung bình, nghèo nhằm phân tích thu nhập và phần dư tài
    chính của nông hộ và nhân khẩu, phản ảnh một cách trung thực mức sống của nông dân tại điểm
    nghiên cứu.
    - Sử dụng các chỉ tiêu phân tích tài chính như lãi thuần (RAVC), hiệu quả đồng vốn,
    lãi/vốn, lãi/vật tư, doanh thu biên tế, lợi tức biên tế để đánh giá hiệu quả kinh tế từng mô hình hệ
    thống canh tác và so sánh các mô hình có hiệu quả cao, tiên tiến với mô hình trồng đại trà, phổ
    biến tại vùng nghiên cứu.
    - Từ các phân tích trên, đúc kết, lựa chọn và kiến nghị các mô hình HTCT có hiệu quả cao
    nhằm tăng thu nhập cho nông hộ và bảo đảm tính bền vững của môi trường. Đề tài cũng là cơ sở
    cho những nghiên cứu tiếp theo về chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi tại vùng đất xám cao
    nhiều cát vùng Bảy Núi vốn là nơi nghèo so với các nơi khác trong Tỉnh
    B. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
    I. ĐỐI TƯỢNG
    Đối tượng nghiên cứu là các hộ nông dân đang thực hiện các HTCT trên vùng đất xám
    quanh chân núi Dài thuộc Huyện Tri Tôn.
    II. PHẠM VI
    Phạm vi không gian:
    Quanh chân núi Dài có 4 xã: Châu Lăng, Lương Phi, Lê Trì và thị trấn Ba Chúc.
    Các xã, thị trấn nầy được phân chia ranh giới địa lý đều có núi và đất bằng. Chọn 3 điểm Lương
    Phi, Lê Trì và TT. Ba Chúc làm đại diện cho vùng nghiên cứu.
    Phạm vi kinh tế, xã hội:
    - Chỉ chọn các hộ nông dân trực tiếp sản xuất không chọn các hộ xâm canh, tiểu
    thương, dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp
    - Không phân biệt hộ người Kinh hay Khmer
    C. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
    I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
    1. Đặc điểm chung kinh tế nông hộ, nông nghiệp, nông thôn
    1.1. Thế nào là kinh tế nông hộ, nông nghiệp, nông thôn
    Theo Lâm Quang Huyên (2003) cho rằng “ Nông hộ (hộ nông dân) là gia đình sống bằng
    nghề nông, là một đơn vị về mặt chính quyền, là gia đình sống bằng nghề nông. Hộ nông dân là
    một đơn vị sản xuất cơ bản, một đơn vị sản xuất “rất ổn định” và là “phương tiện tuyệt vời để
    tăng trưởng và phát triển nông nghiệp”. Hộ nông dân có những đặc trưng riêng biệt, không
    giống như những đơn vị kinh tế khác, do đó có thể thấy rằng: nông hộ là một đơn vị kinh tế xã
    hội khác biệt.
    Định nghĩa của Đào Công Tiến (2003) về kinh tế nông hộ như sau:
    Kinh tế nông hộ là đơn vị sản xuất và tiêu dùng của nền kinh tế nông thôn. Kinh tế nông
    hộ dựa chủ yếu vào lao động gia đình để khai thác đất và các yếu tố sản xuất khác nhằm đạt thu
    nhập thuần cao nhất. Kinh tế nông hộ là đơn vị kinh tế tự chủ, căn bản dựa vào sự tự tích lũy, tự
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...