Luận Văn Điều kiện thành lập thị trường CK & hoạt động của nó trong thời kỳ non trẻ

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÊN ĐỀ TÀI: Điều kiện thành lập thị trường CK & hoạt động của nó trong thời kỳ non trẻ

    PHẦN MỞ ĐẦU

    Công ty cổ phần là hình thức kinh tế mới xuất hiện khi nước ta chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Từ năm 1991 đén nay, ở nước ta có rất nhiều công ty cổ phần được thành lập. Sự tồn tại và phát triển của chúng trong những năm qua đã chứng tỏ rằng sự hình thành các công ty cổ phần ở Việt Nam là một tất yếu khách quan, một xu hướng phù hợp với thời đại. Là sinh viên việc nghiên cứu về công ty cổ phần và quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam là thật sự cấp thiết. Đề tài “Công ty cổ phần và vai trò của nó trong phát triển kinh tế” đã mở ra cho em cơ hội hiểu rõ những vấn đề cơ bản về công ty cổ phần, vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế Việt Nam

    Công ty cổ phần hình thành và phát triển ở Việt Nam là một vấn đề có tính thời sự, mặt khác do trình độ còn hạn chế nên trong khuôn khổ bài viết này, tôi chỉ nêu lên một số vấn đề cơ bản về công ty cổ phần, tóm lược quá trình cổ phần hoá ở Việt Nam trong thời gian qua và một số biện pháp nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hoá ở nước ta. Bài viết này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình của thầy cô giáo và sự giúp đỡ của thư viện trường về nhiều tài liệu bổ ích.

    Phần nội dung của bài viết được bố cục thành 3 chương chính.
    Chương 1: "Một số vấn đề lý luận cơ bản về công ty cổ phần" bàn về một số khái niệm bản công ty cổ phần,điều kiện hình thành công ty cổ phần và vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường.

    Chương 2: "Thực trạng về công ty cổ phần ở Việt Nam. Vai trò của nó đối với nền kinh tế nước ta". Chương này cho thấy việc hình thành công ty cổ phần ở nước ta là tất yếu, vai trò của chúng đối với nền kinh tế, thưc trạng về quá trình thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua .

    Chương 3: "Một số giải pháp góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hóa ở nước ta. ý nghĩa của việc nghiên cứu công ty cổ phần và quá trình cổ phần hóa các doanh nghệp nhà nước ở Việt Nam".



    PHẦN NỘI DUNG

    CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN.
    1.1KHÁI NIỆM VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
    Vào đầu thế kỷ XVII và đến nửa sau thế kỷ XIX, nhiều phát minh mới xuất hiện đã giúp các nước phương Tây chuyển từ công nghiệp nhẹ sang công nghiệp nặng. Thêm vào đó là sự phát triển của quan hệ tín dụng. Kết quả là sự ra đời của một hình thức kinh tế mới, đó là công ty cổ phần. Công ty cổ phần là một xí nghiệp mà vốn của nó do nhiều người tham gia góp dưới hình thức mua cổ phiếu. Công ty cổ phần là hình thức tổ chức phát triển của sở hữu hỗn hợp, từ sở hữu vốn của một chủ sang hình thức sở hữu của nhiều chủ diễn ra trên phạm vi công ty. Công ty cổ phần là sản phẩm tất yếu của quá trình xã hội hoá về kinh tế xã hội và cũng là sản phẩm tất yếu của quá trình tích tụ và tập trung hoá sản xuất.
    Cổ phiếu của công ty cổ phần là một loại chứng khoán có giá, bảo đảm cho cổ dông được quyền lĩnh một phần thu nhập từ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty thông qua lợi tức cổ phiếu (thu nhập từ cổ phiếu). Thông thường, lợi tức cổ phiếu cao hơn lợi tức ngân hàng, nếu không, người có tiền sẽ gửi tiền vào ngân hàng, ít rủi ro hơn. Cổ phiếu có thể mua bán trên thị trường chứng khoán dựa vào mệnh giá cổ phiếu, dao động giữa mệnh giá tối thiểu và tối đa.
    Người chủ sở hữu cổ phiếu là cổ đông. Các cổ đông là chủ của công ty và họ có quyền tham dự các đại hội cổ đông, hưởng lợi tức cổ phiếu, chuyển nhượng cổ phần, đầu phiếu.
    Trong nền kinh tế thị trường, công ty cổ phần là một hình thức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần vốn góp của mình. Vì vậy công ty cổ phần có đủ tư cách pháp lý để huy động lượng vốn lớn rải rác của các cá nhân trong xã hội. Công ty cổ phần, ngoài việc phát hành cổ phiếu để huy động vốn, còn có thể đi vay nợ rồi trả lãi hoặc phát hành hối phiếu, tín phiếu và các giấy nợ khác để thu hút vốn. Hình thức công ty cổ phần có sức hấp dẫn riêng mà các hình thức khác không thể thay thế được. Đó là, thứ nhất, việc mua cổ phiếu không những đem lại cho cổ đông lợi tức cổ phần mà còn hứa hẹn mang đến cho họ một khoản thu nhập nhờ việc gia tăng trị giá cổ phiếu khi công ty làm ăn có hiệu quả. Thứ hai, các cổ đông có quyền tham gia quản lý theo điều lệ của công ty và được pháp luật bảo đảm, điều đó làm cho quyền sở hữu của cổ đông trở nên cụ thể và có sức hấp dẫn hơn. Thứ ba, cổ đông có quyền được ưu đãi trong vịêc mua những cổ phiếu mới phát hành của công ty trước khi chúng được bán rộng rãi cho công chúng.
    Như vậy, công ty cổ phần đã thực hiện được việc tách quan hệ sở hữu khỏi quá trình kinh doanh, tách quyền sở hữu với quyền quản lý và sử dụng. Từ đó, nó tạo nên một hình thái xã hội hoá sở hữu giữa một bên là đông đảo quần chúng với một bên là tầng lớp các nhà quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng tư bản xã hội cho các kế hoạch kinh doanh qui mô lớn. Những người đóng vai trò sở hữu trong công ty cổ phần không trực tiêp đứng ra kinh doanh mà uỷ thác cho bộ máy quản lý của công ty. Trong đó, Đại hội cổ đông và Hội đồng quản trị là hai tổ chức chính đại diện cho quyền sở hữu của các cổ đông trong công ty, quyền sở hữu tối cao thuộc về Đại hội cổ đông.

    1.2.TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VIÊC HÌNH THÀNH CÔNG TY CỔ PHẦN.
    Công ty cổ phần ra đời từ những năm cuối thế kỷ XVI ở các nước phát triển châu Âu và đến nay đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm. Công ty cổ phần là hình thức tổ chức doanh nghiệp điển hình trong nền kinh tế thị trường. Sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân sâu xa trong nền kinh tế của các nước tư bản chủ nghĩa. Khi nền kinh tế đạt được trình độ tập trung sản xuất nhất định, cùng với nó là sự phát triển mạnh mẽ của nền đại công nghiệp cơ khí, thì công ty cổ phần ra đời là kết quả tất yếu để đáp ứng đòi hỏi của sự ra đời và phát triển của nền kinh tế thị trường, thúc đẩy quá trình tập trung và tích tụ tư bản diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
    Quá trình xã hội hoá tư bản, tăng cường tích tụ tư bản ngày càng cao là nguyên nhân hàng đầu thúc đẩy công ty cổ phần ra đời. Quy luật giá trị có vai trò rất lớn trong nền kinh tế hàng hoá, nó đã tác động mạnh mẽ đến các chủ thể kinh tế. Các hàng hoá được sản xuất trong những diều kiện khác nhau, nên có giá trị cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải trao đổi theo giá trị xã hội. Chỉ có những người sản xuất có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội mới thu được lợi nhuận,mới có thể đứng vững trong cạnh tranh. Do đó, họ tìm cách cải tiến nâng cao trình độ kỹ thuật, nâng cao trình độ quản lý, nâng cao trình độ sản xuất và giảm thiểu chi phí sản xuất, tiến tới hơp lý tối đa quá trình sản xuất. Tuy nhiên, thường chỉ có những nhà tư bản lớn có qui mô sản xuất ở một mức độ nhất định mới có đủ khả năng để trang bị kỹ thuật hiện đại, làm cho năng suất lao động tăng lên, do đó mới có thể giành thắng lợi trong cạnh tranh.
    Để tránh kết cục bi thảm trong cạnh tranh có thể xảy ra, các nhà tư bản vừa và nhỏ phải tự tích tụ vốn để từ đó đầu tư nâng cao kỹ thuật công nghệ, hiện đại hóa các trang thiết bị, mở rộng qui mô sản xuất, nâng cao năng suất lao động nhằm hạ giá thành sản phẩm. Song việc này lại rất khó khăn, mặt khác, quá trình tích tụ vốn để thực hiện được phải mất rất nhiều thời gian. Để khắc phục, các nhà tư bản vừa và nhỏ đã thoả hiệp và liên minh với nhau, tập trung các tư bản cá biệt thành một tư bản lớn đủ sức mạnh để để cạnh tranh và giành chiến thắng với các nhà tư bản lớn khác. Và như vậy, hình thức tập trung vốn đã là manh nha cho sự hình thành và phát triển mạnh mẽ công ty cổ phần.
    Sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp cơ khí, của tiến bộ khoa học kỹ thuật đã tạo đông lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển. Những công ty cổ phần đầu tiên xuất hiện vào đầu thế kỷ XVII, thời kỳ tích luỹ ban đầu tư bản như công ty Đông Ấn Độ của Anh (1600) và Hà Lan (1602). Nhưng chỉ đến cuối thế kỷ thứ XIX, những công ty cổ phần mới trở thành hiện tượng phổ biến. Thời kỳ này, lực lượng sản xuất phát triển cùng với sự phát triển mạnh của khoa học kỹ thuật đòi hỏi tư bản cố định tăng lên, do đó số tư bản tối thiểu để kinh doanh cũng tăng lên. Khi không có đủ vốn, nhà tư bản phải liên minh với các nhà tư bản khác để tập trung nhiều tư bản cá biệt phân tán thành một tư bản lớn bằng cách góp vốn kinh doanh. Sự tập trung vốn này đã hình thành nên công ty cổ phần.
    Sự phát triển của khoa học công nghệ làm xuất hiện ngày càng nhiều ngành nghề mới, nhiều lĩnh vực kinh doanh và những mặt hàng mới. Khi thấy ngành mới có lợi nhuận cao hơn, các nhà tư bản sẽdi chuyển tư bản của mình sang lĩnh vực kinh doanh mới. Tuy nhiên, việc di chuyển tư bản gặp nhiều khó khăn bởi vì các nhà tư bản không thể một lúc huỷ bỏ ngay các xí nghiệp cũ rồi chuyển sang xây dựng xí nghiệp mới. Họ chỉ có thể di chuyển dần từng phần tư bản của họ mà thôi, hơn nữa, việc di chuyển sẽ tiêu tốn nhiều thời gian và họ sẽ mất lợi thế trong cạnh tranh và thu lợi nhuận siêu ngạch từ lĩnh vực kinh doanh mới. Để giải quyết khó khăn này, các nhà tư bản đã nhanh chóng thỏa thuận cùng nhau góp vốn thành lập công ty cổ phần.
    Sự phân tán tư bản để tránh rủi ro trong cạnh tranh và tạo thế mạnh trong quản lý Sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã mở rông giới hạn của sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên điều này gắn liền với sự cạnh tranh vô cùng khốc liệt trong nền kinh tế thị trường và như vậy các nhà doanh nghiệp phải đứng trước những rủi ro ngày càng lớn. Nếu tập trung đầu tư vào chỉ một ngành nào đó thì rủi ro của họ càng lớn và họ có thể bị phá sản. Do đó các nhà tư bản phân tán tư bản của mình bằng cách tham gia đầu tư kinh doanh ở nhiều ngành, nhiều công ty khác nhau. Cách giải quyết này đã giúp các nhà tư bản tránh được nhiều rủi ro. Một là, các nhà doanh nghiệp chia sẻ thiệt hại cho nhiều người khi gặp rủi ro. Hai là, việc điều hành công ty cổ phần do một tập thể hội đủ điều kiện về vốn, trí tuệ và trình độ tổ chức quản lý đảm nhiệm nên công ty cổ phần hoạt động hiệu quả và hạn chế được nhiều rủi ro.
    Tín dụng tư bản chủ nghĩa mở rộng, trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tập trung sản xuất, tạo điều kiện cho công ty cổ phần ra đời và phát triển. Thị trường vốn là loại thị trường quan trọng của nền kinh tế thị trường, vì thế sự phát triển của kinh tế hàng hoá thì tất yếu sẽ làm cho thị trường vốn phát triển. Trong nền kinh tế, thường xuyên có những doanh nghiệp mà trong từng thời điểm nào đó có một bộ phận vốn nhàn rỗi. Chẳng hạn, vốn dùng để trả lương nhưng chưa đến kỳ trả, vốn mua nguyên liệu nhưng chưa đến kỳ mua .Trong khi đó, một số doanh nghiệp khác muốn có vốn để thanh toán, để mở mang doanh nghiệp nhưng lại chưa tích luỹ kịp. Tương tự như vậy, trong dân cư và các tổ chức xã hội cũng có số tiền nhàn rỗi; một bộ phận dân cư khác lại cần tiền cho nhu cầu chi tiêu .Với những nhà doanh nghiệp và dân cư có tiền nhàn rỗi họ muốn đồng tiền của mình sinh lời; mặt khác, những doanh nghiệp và dân cư cần tiền trong một thời gian nhất định, họ sẵn sàng chấp nhận trả một khoản lời nhất định để có được số vốn cần thiết. Sự ra đồi của tín dụng đã giải quyết được mâu thuẫn này. Tín dụng là sự vay mượn lẫn nhau dựa trên nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn kèm theo lợi tức. Tín dụng ra đời đã làm giảm chi phí lưu thông và đẩy nhanh quá trình tái sản xuất và là động lực thúc đẩy quá trình tập trung tư bản trong các công ty cổ phần.
     
Đang tải...