Luận Văn Điều chỉnh kinh tế của NN ở các nước tư bản phát triển

Thảo luận trong 'Triết Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Điều chỉnh kinh tế của NN ở các nước tư bản phát triển




    LỜI MỞ ĐẦU
    Nền kinh tế ở các nước tư bản chủ nghĩa từ sau chiến tranh thế giới thứ II (1951-1971) có nhiều biến đổi so với trước chiến tranh một trong những nhân tố quan trọng gây nên những biến đổi đó là sự điều chỉnh kinh tế của Nhà nước. Nhờ điều chỉnh kinh tế của Nhà nước chủ nghĩa tư bản đã vượt qua được nguy cơ sụp đổ, góp phần tạo ra mấy thập kỉ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ nhất là sau chiến tranh thế giới thứ II (1951-1970). Vậy nhờ đâu mà Nhà nước tư bản có vai trò kinh tế đó? Nó được tổ chức như thế nào và thể hiện vào đời sống kinh tế xã hội ra sao? Những kinh nghiệm điều chỉnh kinh tế nào của Nhà nước tư bản hiện đại có lợi ích đối với nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam? Đó là những vấn đề không chỉ quan tâm trong giới lí luận mà cả trong chính giới hiện nay.
    Giải đáp những vấn đề trên sẽ giúp chúng ta hiểu sâu thêm bản chất của chủ nghĩa tư bản hiện đại và ở những mức độ nhất định nó cũng giúp cho công tác quản lý thực tiễn nền kinh tế của chúng ta.
    Từ lâu, đặc biệt từ những năm 30 vai trò kinh tế của Nhà nước tư bản đã được nhiều nhà khoa học lớn của giới lí luận tư sản nghiên cứu và xây dựng thành các phái lí luận như: phái trọng cầu, trọng tiền, trọng cung, kì vọng hợp lí, . do J.Keynes, M.Friedenan, Laffer, Thomas Sargent, William, . đại diện. Về điều chỉnh kinh tế của Nhà nước tư bản hiện đại cũng được nghiên cứu trên nhiều khía cạnh đặc biệt là trong giới lí luận Xô Viết cũ.
    Ở Việt Nam, đề tài này cũng được đề cập trên những góc độ khác nhau của một số nghiên cứu. Song đây vốn là vấn đề chỉ được giải quyết thoả đáng tương xứng với vị trí của nó trong hệ thống lí luận về chủ nghĩa tư bản hiện đại ở nước ta.
    Công trình này nhằm giới thiệu với bạn đọc một bức tranh toàn cảnh hơn, cố gắng làm rõ bản chất, cơ chế hoạt động của Nhà nước tư bản hiện đại trên cơ sở thực tiễn hoạt động của ba trung tâm kinh tế tư bản ngày nay là Nhật, Mỹ, Au.
    A-/ ĐIỀU CHỈNH KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC
    Ở CÁC NƯỚC TƯ BẢN PHÁT TRIỂN
    I-/ NHÀ NƯỚC ĐIỀU CHỈNH SỰ VẬN ĐỘNG CỦA NỀN KINH TẾ LÀ ĐÒI HỎI KHÁCH QUAN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN ĐẠI CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN:
    1-/ Một số tư tưởng kinh tế cơ bản về tính khách quan và vai trò điều chỉnh kinh tế của Nhà nước tư bản hiện đại:
    Do những đòi hỏi chính trị cấp bách cũng như do sự phát triển của sức sản xuất chưa đặt ra, nên trong những trước tác phẩm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, người ta chỉ tìm thấy sự nhấn mạnh Nhà nước như một công cụ bóc lột giai cấp bị thống trị song không phải vì thế mà vai trò kinh tế của Nhà nước tư bản không được đề cập đến hoặc bị xem nhẹ trong lí luận của Maxit. Khi phân tích vai trò kinh tế của Nhà nước F.Enggheng viết: “ . xã hội đẻ ra những chức năng chung nhất định mà thiếu chúng thì không thể được. Những người được chỉ định để thực hiện chức năng đó đã tạo ra trong lòng xã hội một lĩnh vực phân công lao động mới đồng thời họ cũng là lợi ích đặc biệt trong mối quan hệ với những người giao trách nhiệm cho họ và trở nên độc lập hơn trong quan hệ đối với những người đó”.
    Quan phân tích của Angghen ta có thể rút ra những tư tưởng sau:
    Một là, Nhà nước sinh ra nhằm thực hiện những chức năng xã hội chung nhưng khi tồn tại là một lực lượng chính trị mới, nó không chỉ có được lợi ích đặc biệt mà còn có tính độc lập tương đối trong quan hệ với các lực lượng xã hội, người đã giao phó trách nhiệm cho nó.
    Hai là, nhờ tính độc lập tương đối này mà Nhà nước có khả năng tác động trở lại quá trình sản xuất xã hội. Đây không phải là sự tác động một chiều mà là sự tác động qua lại, một bên là lực lượng chính trị chủ động, đại diện cho xã hội và bên kia là các quá trình kinh tế khách quan.
    Nhà nước sinh ra nhằm thực hiện những chức năng xã hội chung, thì một trong những chức năng là làm “một nhạc trưởng” đứng ra điều hành phối hợp không phải một khâu, một quá trình sản xuất đơn lẻ mà là cả quá trình sản xuất xã hội. Nhà nước muốn tác động vào sự vận động của nền kinh tế một cách có hiệu quả, đặc biệt khi các điều kiện tái sản xuất xã hội đang xấu đi thì Chính phủ phải hoạch định các chính sách của mình nhằm vào giải quyết các mục tiêu kinh tế, xã hội dài hạn mà đối tượng thuộc về phía cung trên thị trường. Nếu Nhà nước chỉ tác động vào một vài nhân tố có tính cục bộ nhất thời thì không mang lại hiệu quả mong muốn. Do vậy muốn cho nền kinh tế phát triển ổn định phải tác động vào các nhân tố mang lại hiệu quả lâu dài mà phần lớn nhân tố đó thuộc về yếu tố cung. Có ba yếu tố cơ bản tạo ra sự tăng trưởng ổn định lâu dài: lao động, nguồn vốn và tiến bộ khoa học - kỹ thuật.
    Theo các trường phái lí thuyết sau Keynes về việc Nhà nước phải can thiệp sâu vào quá trình vận động của nền kinh tế. Song M.Friedina cho rằng “Sự vận động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa có mối quan hệ tương hỗ với sự vận động của khối lượng tiền tệ trong lưu thông . Các biến số kinh tế vĩ mô như tổng sản lượng, công ăn việc làm và giá cả, . chủ yếu chịu ảnh hưởng của việc điều chỉnh khối lượng tiền tệ trong lưu thông của Nhà nước, tức là nó ảnh hưởng tới chính sách chủ yếu trong mô hình điều chỉnh kinh tế của Nhà nước”.
    Theo lí thuyết kỳ vọng hợp lí thì các chính sách kinh tế được nhiều Nhà nước hoạch định và thực hiện trong thời kỳ trước đây đều dựa hoàn toàn vào một hướng lí thuyết như: trọng cung, trọng cầu, trọng tiền đều rất cực đoan không phù hợp với sự vận động của nền kinh tế do đó nó bị thất bại. Các chủ thể kinh tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường luôn gặp rủi ro biến động họ cần Nhà nước ngoài mục tiêu thông tin cho các chủ thể kinh tế của mình cũng cần phải nắm được ý kiến của các nhà kinh doanh và nguyện vọng kinh tế của nhân dân để đề ra các quyết sách kịp thời. Điều chỉnh kinh tế bằng Nhà nước hiện nay là phục hồi và tôn trọng các nguyên tắc tự điều tiết của thị trường, xu hướng hiện nay Nhà nước trực tiếp vào giải quyết các vấn đề thực tiễn nhờ đó mà thúc đẩy sự chín muồi các chức năng kinh tế của Nhà nước.
    2-/ Những nguyên nhân cơ bản thúc đẩy sự chín muồi các chức năng kinh tế vĩ mô:
    Một là, nguyên lí khoa học và kinh nghiệm sản xuất được vật hoá trên tư liệu lao động, đối tượng lao động, nó làm cho bộ phận năng động nhất của lực lượng sản xuất là công cụ và người lao động thay đổi về chất lượng. Sự nghiệp to lớn này vượt khả năng của một nhà tư bản thậm chí một tập đoàn tư bản vì phát triển khoa học - kỹ thuật và đào tạo đội ngũ cán bộ có tri thức, kỹ thuật cao xã hội phải đầu tư rất lớn chỉ có Nhà nước - người nắm trong tay tiềm lực kinh tế lớn của xã hội lại được giải phóng khỏi mục tiêu lợi nhuận trước mắt để hoạt động cho mục tiêu chung của toàn bộ giai cấp tư sản và sự bảo tồn và phát triển chủ nghĩa tư bản vì thế Nhà nước tăng cường đầu tư vào các ngành kinh tế giữ vị trí then chốt quyết định sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
    Hai là: Sự ra đời của công nghiệp mới có kỹ thuật hiện đại và nhu cầu cải tạo các ngành truyền thống đòi hỏi quy mô tích luỹ tư bản lớn. Quá trình phân công lao động đã vượt phạm vi lãnh thổ của một quốc gia, xã hội hoá và quốc tế hoá đời sống kinh tế làm nảy sinh nhiều mối quan hệ kinh tế, xã hội và chính trị vượt khỏi tầm điều chỉnh của tư bản tư nhân đòi hỏi Nhà nước phải đứng ra giải quyết, ví dụ việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền, điều chỉnh dòng đầu tư tư bản, điều chỉnh các quan hệ thương mại, . Thực hiện những nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội này đã làm nảy sinh thêm những chức năng kinh tế mới của Nhà nước tư bản hiện đại.
    Ba là, sự phát triển mạnh mẽ của cải cách khoa học-kỹ thuật làm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế quốc dân, sự biến đổi đó thể hiện một cách toàn diện ở các mặt: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu đầu tư , . đặt ra nhu cầu điều chỉnh trên quy mô tổng thể vượt sức của tập đoàn tư bản tài chính nên Nhà nước phải can thiệp vào sự vận động của nền kinh tế, sự can thiệp ở đây không thể là can thiệp bên ngoài quá trình sản xuất mà Nhà nước phải tác động vào tất cả các yếu tố, các khâu và cùng biến mình thành nhân tố chủ động trong cơ chế vận động của tái sản xuất.
     
Đang tải...