Chuyên Đề Diện mạo kinh tế-xã hội đàng trong - Bài tập thực hành học phần: Một số vấn đề về chúa Nguyễn và vươ

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Mục lục


    A. Sự thiết lập chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong : 2
    B. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN ĐÀNG TRONG 6
    B.I. Địa hình. 6
    B.II. Khí Hậu. 7
    B.III. Sông Ngòi 7
    B.IV. Thổ Nhưỡng. 8
    C. Kinh tế-xã hội 8
    C.I. Kinh tế. 8
    C.I.1. Nông nghiệp. 8
    C.I.2. Thủ công nghiệp. 11
    C.I.3. Thương nghiệp. 13
    C.I.4. Đô thị Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn. 23
    C.II. Diện mạo xã hội của Đàng Trong. 36
    C.II.1. Tư tưởng, tôn giáo, tính ngưỡng. 36
    C.II.2. Sự thâm nhập của đạo Thiên Chúa và sự ra đời của chữ “Quốc ngữ”. 37
    C.II.3. Tín ngưỡng cổ truyền. 38
    C.II.4. Giáo dục, khoa cử. 39
    C.II.5. Văn học. 41
    C.II.6. Nghệ thuật 43
    C.II.7. Khoa học-kĩ thuật 45
    D. Vai trò của các chúa Nguyễn. 47

    A.Sự thiết lập chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong :

    Ngay từ khi chiến tranh Nam Bắc Triều còn đang tiếp diễn thì nội bộ Nam triều đã nảy sinh mầm mống của sự chia rẽ. Năm 1545, sau khi Nguyễn Kim bị mưu sát, Trịnh Kiểm được vua Lê đưa lên thay thế chỉ huy mọi việc.
    Để giữ vững quyền hành của mình Trịnh Kiểm tìm cách loại trừ phê cánh của Nguyễn Kim mà trước hết là con trai của ông. Người con đầu là Nguyễn Uông bị ám hại, người con thứ là Nguyễn Hoàng lo lắng tìm cách thoát khỏi mối đe dọa đó. Được sự gợi ý của trạng nguyên Nguyễn Bĩnh Khiêm, Nguyễn Hoàng nhờ chị (vợ của Trịnh Kiểm) xin cho vào trấn đất Thuận Hóa. Bấy giờ ở xứ Thuận Hóa mới dẹp yên, tuy nhà Lê đã đặt tam ti (Đô ti, Thừa ti, Hiến ti) và phủ huyện để cai trị nhưng nhân dân vẫn chưa một lòng. Mặt khác, Kiểm thấy vùng đất ở đó hiểm nghèo, xa xôi cho ngay cho Nguyễn Hoàng.
    Anh Tông lên ngôi Trịnh Kiểm dâng biểu nói: “Thuận Hóa là nơi quan trọng, quân và của do đó mà ra, buổi quốc sơ nhờ đấy mà nên nghiệp lớn. Nay lòng dân hãy còn tráo trở, nhiều kẻ vượt biển đi theo họ Mạc, sợ có kẻ dẫn giặc về cướp, vì không được tướng tài trấn thủ vỗ yên thì không thể xong. Đoạn quân công là con nhà tướng, có tài trí mưu lược có thể sai đi trấn ở đấy để cùng với tướng trấn thủ Quảng Nam cùng nhau giúp sức thì mới đỡ lo đến miền Nam”. Vua Lê nghe theo và trao Nguyễn Hoàng trấn tiết, phàm mọi việc đều ủy thác cả, chỉ mỗi năm nộp thuế mà thôi . Nguyễn Hoàng đã thành công với nước cờ thí này (lúc ấy là năm 1558).
    Theo Li Tana nhận định rằng: “Trịnh Kiểm chỉ có ý tống khứ một địch thủ, nhưng Trịnh Kiểm đã đi sai nước cờ. Và thay vì tống khứ ông đã cho không Nguyễn Hoàng một vương quốc”
    Thuận Hóa (vùng đất từ phía Nam đèo Ngang đến đèo Hải Vân) vốn là đất cũ của Champa, tuy đã được sáp nhập vào Đại Việt từ lâu nhưng đến lúc này dân cư vẫn thưa thớt, kinh tế thì kém phát triển.
    Tháng 11 năm 1558, Nguyễn Hoàng đem theo nhiều anh em, bà con người Tống Sơn (Thanh Hóa) và cùng các quan lại cũ của Nguyễn kim; các “nghĩa dũng” Thanh - Nghệ vào trấn thủ Thuận Hóa.
    Năm 1570, khi quân Mạc tấn công vào vùng Thanh – Nghệ, chúa Trịnh phải triệu trấn thủ Quảng Nam về bảo vệ Nghệ An và giao cho Nguyễn Hoàng cai quản đất Quảng Nam (vùng đất từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông).
    Họ Nguyễn vừa lo phát triển kinh tế, vừa lo củng cố quyền thống trị để thoát ly dần sự lệ thuộc và trở thành một lực lượng đối địch với họ Trịnh. Dần dần khu vực Thuận – Quảng trở thành vùng đất của tập đoàn phong kiến họ Nguyễn. Sau khi đã ổn định tình hình ở xứ Thuận – Quảng, năm 1593 Nguyễn Hoàng đêm quân ra Thăng Long giúp Trịnh Tùng trấn áp các tàn quân của nhà Mạc và sau đó đến năm 1600 vượt biển trở về Thuận Hóa.
    Năm 1613, trước khi chết Nguyễn Hoàng dặn lại con là Nguyễn Phúc Nguyên cố gắng bảo vệ dòng họ của mình: “Đất Thuận – Quảng phía Bắc có Hoành Sơn và Linh Giang, phía Nam có núi Hải Vân và Thạch Bi, địa thế hiểm cố, thật là một nơi để cho người anh hùng dụng võ. Nếu biết dạy bảo nhân dân, luyện tập binh sĩ kháng cự lại họ Trịnh thì gây dựng được cơ nghiệp muôn đời”.
    Sau khi lên kế nghiệp, Nguyễn Phúc Nguyên tổ chức lại chính quyền, tách khỏi sự phụ thuôc họ Trịnh, chỉ nộp phú thuế theo lệ. Năm 1620, họ Trịnh đem quân vào, Phúc Nguyên không chịu nộp thuế nữa. Năm 1627, lấy cớ đó họ Trịnh đem quân vào đánh Thuận Hóa. Cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn bắt đầu.
    Trong gần nửa thế kỉ, hai bên đánh nhau 7 lần vào các năm 1627; 1630; 1643; 1648; 1655 – 1660; 1661 và 1672, trong đó có một lần quân Nguyễn vào sông Gianh tiến đánh quân Trịnh chiếm vùng đất ở phía nam sông Lam (Nghệ An) mấy năm rồi rút về. Từ nam Nghệ An đến bắc Quảng Bình (địa phận sông Gianh và sông Nhật Lệ) trở thành chiến trường. Sau 7 lần đánh nhau dữ dội mà không có kết quả, quân sĩ hao tốn, chán nản, nhân dân khổ cực, hai họ Trịnh – Nguyễn đành phải ngừng chiến, lấy sông Gianh làm giới hạn chia cắt Đàng Ngoài, Đàng Trong.
    Diễn ra đồng thời với cuôc chiến tranh Trịnh – Nguyễn là quá trình mở rộng lãnh thổ và thiết lập chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong.
    Trong những thập kỉ đầu và giữa thế kỉ XVII, cùng với các nhóm cư dân người Việt thì một số người Trung Quốc cũng đến khai khẩn đất hoang và sinh sống làm ăn ở vùng đất Nam Bộ. Nhân việc nhà Thanh thay thế nhà Minh ở Trung Quốc, một số quan lại và quân lính trung thành với triều đình nhà Minh không chấp nhận sự thống trị của nhà Thanh đã vượt biển đến Đàng Trong tìm đất sinh sống và thúc đẩy nhanh hơn quá trình khai phá của chúa Nguyễn.
    Để thu hút nhiều người đến Thuận Hóa làm ăn sinh sống, chúa Nguyễn đã thi hành chính sách khuyến khích đặc biệt đối việc khai phá đất hoang, cho phép người dân biến ruộng đất khai hoang được thành sở hữu tư nhân. Đồng thời, chúa Nguyễn còn thi hành một chế độ khoan hòa, khuyến khích sản xuất, người mới đến không phải trả thuế trong 3 năm đầu định cư.
    Vì vậy, làn sóng tự phát di cư vào Nam tìm đất sinh sống của đông đảo những người nông dân Thuận - Quảng, chúa Nguyễn đã cho lập thành các xã, thôn, phường, ấp của người Việt. Chúa Nguyễn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho những địa chủ giàu có ở Thuận - Quảng đem tôi tớ và chiêu mộ nông dân lưu vong vào đây khai hoang lập ấp.
    Bảo vệ dân chúng khẩn hoang và xác lập chủ quyền là hai quá trình được các chúa Nguyễn tiến hành song song đồng thời. Trong đó xác lập chủ quyền là để bảo vệ tính hợp pháp của công cuộc khẩn hoang và thành quả của công việc khẩn hoang chính là cơ sở để xác lập chủ quyền một cách thật sự. Từ thế kỉ thứ XVII đến thế kỉ thứ XVIII, toàn bộ khu vực phía Nam đến tận Đồng Bằng Sông Cửu Long đã hoàn toàn thuộc quyền cai quản của chúa Nguyễn và nhanh chóng trở thành vùng phát triển kinh tế - xã hội năng động. Đây là thành quả lao động cần cù và sáng tạo của tất cả các cộng đồng dân cư trong guồng máy phát triển chung của đất nước, trong đó vai trò của các cư dân người Việt, người Khmer, người Chăm va người Hoa là rất nổi bật.
    Năm 1774, chúa Nguyễn đã chia vùng đất từ nam dãy Hoành Sơn đến Cà Mau làm 12 đon vị hành chính gọi là dinh. Vùng đất Thuận – Quảng cũ gồm 6 dinh: Bố Chính, Quảng Bình, Lưu Đồn, Cựu Dinh (hay Chính Dinh cũ), Chính Dinh, Quảng Nam. Vùng đất mới chia làm 6 dinh: Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ ( Vĩnh Long). Ngoài ra, còn có một trấn phụ thuộc là Hà Tiên. Mỗi dinh quản hạt một phủ, dưới phủ có huyện, tổng hay xã. Riêng dinh Quảng Nam có 3 phủ: Thăng Hoa, Quảng Ngãi, Quy Nhơn.
    Thủ phủ ban đầu đóng ở xã Ái Tử thuộc Cựu Dinh, năm 1570 dời vào xã Trà Bát (Triệu Phong – Quảng Trị), năm 1626, dời vào xã Phước Yên sau đó dời sang Kim Long (đều thuộc Thừa Thiên), cuối cùng vào khoảng năm 1687 dời về Phú Xuân (Huế).
    Năm 1614, Nguyễn Phúc Nguyên lên thay Nguyễn Hoàng đã quyết định thải hồi các quan lại do nhà Lê cử, cải tổ lại bộ máy chính quyền. Dưới các dinh đều có những ti.
    Năm 1646, chúa Phúc Lan bắt đầu mở khoa thi, hai cấp Chính đồ (cấp cao) và Hoa văn (cấp thấp),về sau nhiều kì thi được mở tiếp. Song sang thế kỉ XVIII, chế độ mua quan bán tước bắt đầu phát triển. Quan lại không được cấp bổng lộc nhất định mà chỉ được ban một số dân phu hoặc được phép thu thêm một số tiền gạo ngoài thuế của dân.
    Quân đội thời chúa Nguyễn gồm 3 loại: Quân Túc vệ hay Thân quân, quân chính quy ở các dinh và thổ binh hay tạm binh. Các loại quân đều chia thành cơ, đội, thuyền.
    Các chúa Nguyễn đã bố trí lực lượng quân sự thiết lập các đồn thủ “nơi xung yếu” để chống giặc, giữ dân, bảo vệ chủ quyền, Quân đội thời chúa Nguyễn gồm bộ binh, thủy binh, tượng binh và pháo binh. Đầu thế kỉ XVII, người Đàng Trong học được cách đúc súng, các thuyền lớn đều có 5 khẩu đại bác. Chúa Nguyễn cũng thường tổ chức các hội thi bắn súng, huấn luyện thủy quân.
    Như vậy, từ sau khi Nguyễn Hoàng từ bỏ đất Bắc đi vào vùng đất Thuận - Quảng, họ Nguyễn dần dần phát triển xuống phía Nam, xây dựng vùng đất Đàng Trong thành một lãnh địa riêng có quyền độc lập mặc dầu cho đến trước năm 1744 vẫn giữ tước vị Quốc công, dùng niên hiệu của vua Lê. Nhưng nhân dân luôn luôn xem vùng đất Thuận – Quảng là Đàng Trong của Đại Việt xưa kia.
    B. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN ĐÀNG TRONG

    Năm 1558 Nguyễn Hoàng xin vào trấn đất Thuận Hóa và lập nên căn cứ của mình tại phương Nam, mở rộng biên giới của mình xuống phía nam, tới tận đồng bằng sông Cửu Long.
    B.I. Địa hình

    Vùng đất này bao gồm một dải đất dài và hẹp, nằm giữa núi ở phía tây và biển ở phía đông. Địa hình của vùng đất này có đặc điểm : vùng núi là dãy Trường Sơn phủ đầy rừng rậm, chạy dài, ở phía Bắc thường hẹp và gồ ghề, càng xuống phía nam càng thấp dần, có chiều mở rộng tạo thành cao nguyên, thường được gọi là Tây Nguyên hay Cao Nguyên Trung phần, có diện tích khoảng 20.000 dặm vuông (100 dặm chiều rộng và 200 dặm chiều dài). Vùng cao nguyên này thường được dùng làm nơi trú ẩn. ngoài ra còn có các dãy núi bị nhiều con sông nước chảy mạnh và mũi núi cắt ngang làm thành một khu vực nhỏ và hẹp, ít gắn kết với nhau về mặt địa lý.
    Địa hình bị chia cắt mạnh, các dãy núi đâm ngang ra biển hình thành nên các vũng vịnh tạo điều kiện xây dựng các hải cảng. Đây cũng là một trong những điều kiện để Đàng Trong phát triển về mặt kimh tế đặc biệt là ngoại thương.
    Vùng đồng bằng rộng lớn, chỉ tính riêng đồng bằng sông Cửu Long đã gấp hơn hai lần đồng bằng sông Hồng ở Đàng Ngoài, ngược lại , dải đồng bằng ven biển từ Đà Nẵng – Quảng Nam trở vào lại nhỏ hẹp và bị chia cắt bởi các đồi núi, vũng vịnh và đầm phá.
    Có ba đồng bằng lớn là:


    Quảng Nam : đây là một vùng đồng bằng phì nhiêu, có diện tích khoảng 1.800 cây số vuông. Nước do sông Thu Bồn và nhiều nhánh của con sông này cung cấp.
    Bình Định: đây là vùng đồng bằng trù phú, có tổng diện tích là 1.550 cây số vuông, có hai dãy núi khác nhau bao quanh. Hai thung lũng của vùng đất này sử dụng nước của hai con sông Đà Rằng và Lai Giang.
    Đồng bằng sông Cửu Long: địa hình bề mặt châu thổ với nhiều bồn trũng rộng lớn trong nội địa và hang loạt các cồn cát duyên hải. Bề mặt đồng bằng sông Cửu Long còn được phù sa mùa lũ bồi đắp hàng năm. Đồng bằng sông Cửu Long được phủ lên một mạng lưới sông ngòi và kênh đào dày đặc, chằng chịt. gồm hai hệ thống sông chính là sông Cửu Long , phần hạ lưu sông chảy vào địa phận Nam Bộ dài 250km và hệ thống sông Đồng Nai dài 580km.
    B.II. Khí Hậu
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...