Báo Cáo Diễn biến kinh tế năm 2010 và vấn đề tái cấu trúc dài hạn

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Chính sách thắt chặt tiền tệ từ cuối năm 2009 đã đem lại kết quả rõ rệt trong 6 tháng đầu năm 2010 với tình hình vĩ mô được ổn định, đáng kể nhất là nguy cơ lạm phát 2 con số được chặn lại từ quý 2 và tăng trưởng kinh tế hồi phục lên mức cao hơn năm ngoái, gần hơn tới mục tiêu 6,5 % của Chính phủ cho năm nay.


    Tuy nhiên sau việc điều tra những sai phạm và tái cấu trúc Vinashin được công bố, những vấn đề dài hạn như tái cấu trúc nền kinh tế và quản trị các doanh nghiệp nhà nước lại xuất hiện nổi cộm như những ưu tiên chính sách mới, nhất là khi chính phủ đang kết thúc việc sửa soạn các chương trình kinh tế xã hội cho 5 và 10 năm tới.


    GDP tiếp tục gia tăng nhờ hoạt động kinh tế trong nước tăng tốc


    GDP tăng 6,4% trong Q2.10 so với 5,8% trong Q1.10, và 6,1% cho 6 tháng đầu năm. Nguyên do là nhờ khu vực công nghệ và xây dựng đã tăng 13,8% trong Q2.10 và đặc biệt là hoạt động bán lẻ đã tăng 37,6 % so với cùng kì năm ngoái.


    Đáng kể là trong một số hoạt động công nghiệp như sản xuất quần áo và da giày, mặc dù phải đối phó với sự trì trệ tương đối của xuất khẩu sang khu vực Âu châu do ảnh hưởng khủng hoảng nợ công của châu lục này, các nhà sản xuất đã linh hoạt quay sang thị trường nội địa để duy trì sản xuất. Điều này nói lên khả năng tiềm ẩn của thị trường nội địa trong trung hạn khi Việt Nam phải đối phó với vấn đề xuất khẩu giới hạn.


    Khả năng này cho thấy mục tiêu tăng trưởng 6,5% có thể đạt được cho cả năm khi dự báo tăng cho GDP là 7%-7,2% cho 6 tháng tới.


    Lạm phát tiếp tục được kiềm chế


    Lạm phát tiếp tục giảm trong quý 2, còn 8,7% vào tháng 6 so với cùng kì năm ngoái, so với 9,5% vào tháng 3, do chính sách tín dụng thắt chặt và giá cả thực phẩm và năng lượng giảm.


    Tăng trưởng tín dụng chỉ tăng 3,5% trong Q1 và 13% trong 7 tháng đầu năm; mục tiêu làm giảm cung tiền và tín dụng xuống còn 20%-25% trong năm 2010 có thể thực hiện được và sẽ tiếp tục làm giảm kỳ vọng lạm phát cho 6 tháng

    cuối năm, nhờ đó mức lạm phát cho cả năm có thể giữ được ở mức 8%-9%, thay vì mức hai con số lo ngại dạo đầu năm.


    Giá dầu quốc tế giảm xuống còn 75 USD/thùng trong tháng 6 cũng đã góp phần giảm sức ép cho lạm phát. Nhưng khuynh hướng giá dầu tăng trở lại lên trên 80 USD/thùng vào cuối tháng 7 vẫn còn là áp lực đẩy giá, ngoài vấn đề chính là NHNN vẫn cố giữ được mức tăng hợp lý cho tín dụng trong những tháng cuối năm.


    Các cố gắng để đem tín dụng trở lại dần với cơ chế thị trường


    Mặc dù có sự can thiệp tích cực của NHNN thông qua Hiệp hội Ngân hàng để đem lãi suất cho vay xuống thêm nữa ở mức công bố là 12%, lãi suất này thật sự vẫn còn được áp dụng ở dải 12%-16%, và lãi suất tiền gửi giảm xuống còn 11%- 11,2%


    Thanh khoản tiếp tục tăng trên thị trường liên ngân hàng, giúp lãi suất đồng Việt Nam qua đêm giảm xuống còn 6%-7% và lãi suất đồng USD giảm xuống mức bình thường là 0.5%-1%.


    Trong khi đó, các ngân hàng với tình trạng thanh khoản cải thiện đã mua thêm nhiều trái phiếu chính phủ và giúp cải thiện thị trường trái phiếu qua đó nhiều trái phiếu Chính phủ được bán qua đấu giá và làm lãi suất trái phiếu giảm nhanh từ 12,2% vào cuối tháng 4 xuống còn 10,7% vào đầu tháng 7.


    NHNN đặt mục tiêu giảm lãi suất tiền gửi xuống còn 10% và lãi suất cho vay thật sự xuống 12% trong quý 3. Điều này khiến một số doanh nghiệp tiếp tục chờ đợi chưa vay vốn tiền đồng và dùng vốn tự có hay vay vốn bằng USD. Việc này cũng làm nền kinh tế càng bị đô la hoá hơn và tạo ra áp lực lên tỉ giá như bàn dưới đây.


    Khả năng lãi suất xuống thấp nữa hay không là tuỳ theo nhiều yếu tố : (i) mức lạm phát tiếp tục xuống trong những tháng còn lại giúp làm giảm kỳ vọng lạm phát cho năm tới; (ii) sự ổn định của nền tài chính công gây tin tưởng trở lại cho các doanh nhân cũng như giới đầu tư; (iii) sự hoạt động trở lại của tín dụng theo các điều kiện thị trường bớt hẳn sự can thiệp của NHNN; và nhất là (iv) sự ổn định của tỉ giá.


    Thâm hụt thương mại tiếp tục ở mức cao và các khoản vay ngân hàng bằng USD lại làm ảnh hưởng đến tỉ giá

    Thâm hụt thương mại lại tăng lên 1,2 tỉ USD vào tháng 6 so với 0, 87 triệu USD vào tháng 5. Xuất khẩu đã đạt 32,1 tỉ USD trong 6 tháng, nhưng nhập khẩu tăng lên 38,8 tỉ USD và thâm hụt thương mại vẫn ở mức cao 6,7 tỉ USD.


    Sau khi tỉ giá thị trường tự do và thị trường chính thức gần như bằng nhau 19.000ĐVN/1 USD trong quý 2, mới đây áp lực lên tỉ giá lại xuất hiện do (i) thâm hụt thương mại vẫn cao như nói trên; (ii) lo ngại mức tăng vọt của các khoản vay ngân hàng bằng USD sẽ gây ra mức cầu USD cao vào cuối năm để trả lại nợ ngân hàng; và (iii) vì dự trữ ngoại hối quốc gia nói chung vẫn ở mức thấp và vẫn chưa được công bố chính thức đều đặn khiến dễ sinh ra đồn đại trên thị trường tự do.


    Nói chung, thâm hụt kép ở mức cao của hai cán cân ngân sách và thương mại chưa cho thấy dấu hiệu cải thiện chắc chắn và vẫn là vấn đề cần phải quan tâm cho năm nay và trong thời gian trung hạn sắp tới.


    Nhưng vấn đề dài hạn xuất hiện nổi cộm với việc tái cấu trúc nền kinh tế


    Chuyện nợ lớn và khủng hoảng tài chính của VINASHIN vừa mới đây đã đặt lại những vấn đề dài hạn về chi tiêu và nợ công của chính phủ cũng như hiệu quả của toàn nền kinh tế. Vào ngày 16/7/2010, Thủ Tướng Chính phủ đã có bài viết về chiến lược phát triển kinh tế xã hội cho 10 năm tới, đặc biệt nhấn mạnh 3 điểm :
     Mục tiêu cấp bách tái cấu trúc nền kinh tế


     Cải cách Doanh nghiêp Nhà nước (DNNN), nhất là các Tổng Công ty Nhà
    nước vốn được nhận nhiều ưu đãi


     Vai trò tác động của các doanh nghiệp tư nhân trong tương lai


    Đây là vấn đề cần thời gian suy nghĩ và chắc chắn sẽ được Chính phủ thảo luận nhiều hơn trong thời gian vài tháng tới cho các lộ trình chính sách 5 năm (2011-2015) và 10 năm (2011-2020). Nhưng tựu trung chúng tôi thấy có hai khía cạnh chính lúc này :




    ã Thay đổi căn bản trong kế hoạch đầu tư quốc gia nhằm : (i) làm giảm các
    thất thoát lãng phí khổng lồ gây sốc hiện tại trong các công trình đầu tư, nhất là các dự án với nguồn vốn quốc gia hay đi vay vốn ODA và các nguồn vốn tư nhân nước ngoài; (ii) tăng hiệu quả đầu tư bằng cách thật sự nâng cao vai trò của khu vực tư nhân và áp dụng kế hoạch đầu tư mới bớt dùng vốn công hơn; và (iii) trong tổng thể nhằm làm giảm hệ số ICOR giữa nhu cầu đầu tư và độ tăng trưởng đang quá cao của Việt Nam, phản ánh song hành tệ nạn thất thoát và kém hiệu quả trong đầu tư công.

    ã Đặt ra vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô dài hạn nhằm chặn đứng tâm lý lạm phát
    phải đối phó từng năm như trong thời gian gần đây.


    Từ vấn đề tái cấu trúc kinh tế và guồng máy sản xuất


    Tựu chung, kinh tế Việt Nam đã có được "tăng trưởng" với độ tăng GDP hàng năm cao trong thập niên qua, nhưng vẫn chưa "phát triển" được theo đúng nghĩa toàn bộ của nó với sự thiếu tính bền vững, thiếu chất lượng cao với các vấn đề xã hội như môi trường. Hạ tầng cơ sở cũng như nền giáo dục mỗi ngày một xuống dốc cần thay đổi để tạo sức cạnh tranh cần thiết cho nền kinh tế trong thập niên tới.


    Vấn đề căn bản cho kinh tế Việt Nam vẫn là chọn lựa thể chế thích hợp cho sản xuất. Chúng ta nên tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu sản xuất và phân bố nhiều tài nguyên qua khu vực doanh nghiệp nhà nước, nhất là bằng các Tổng Công ty nhà nước, như đang làm hiện tại, hay cần thật sự tăng cường vai trò tác động của khu doanh nghiệp tư nhân—một bước đi mới quyết đoán trong tương lai?
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...