Tài liệu địa đàng phương đông

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỊA ĐÀNG PHƯƠNG ĐÔNG

    Lời kết từ thiên đường phương Đông 1
    Tựa đề do người dịch đặt

    “Ồ, thì phương Đông là phương Đông, còn phương Tây là phương Tây và sẽ chẳng bao giờ chúng gặp nhau được. Họa chăng đến khi nào Đất và Trời đứng trước tòa phán xét tối cao của thượng đế ” Những lời này của văn hào Anh Rudyard Kipling (1865-1936) vang vọng đến thời đại của chúng ta từ thời kỳ thuộc địa. Các ngành khảo cổ học, di truyền học và ngôn ngữ học dường như dã chứng minh rằng Kipling đúng hơn chín mươi phần trăm: Đây là một đường ranh hiển nhiên, sâu thẳm và lâu đời phân cách miền Viễn đông với phần còn lại của đại lục Á - Âu. Câu chuyện của tôi tập trung vào năm đến mười phần trăm sự sự giao thoa này. Bằng cách sử dụng những chứng cớ từ ba ngành học này ở phần I, tôi đã đề xuất rằng có một mối liên kết giữa cư dân Đông Nam Á tiền sử với phần còn lại của thế giới. Sau thời kỳ Băng hà, cư dân Đông Nam Á bị buộc phải trốn chạy về phương Tây, Lưỡng Hà và có thể còn xa hơn nữa, và ảnh hưởng của họ đến phương Tây lớn hơn nhiều so với số dân của họ. Tôi cũng đã chứng minh ở phần II rằng bên cạnh những bằng chứng về quá trình di cư tự nhiên của cư dân Đông Nam Á, chúng ta còn có thể nhận ra những mối liên kết văn hóa ngược trở lại với lãnh thổ này trong nhiều câu chuyện cổ ở phương Tây và các câu chuyện khác nữa. Chỉ trong vòng 2.000 năm qua đã có một dòng chảy văn hóa ngược chiều - từ Tây sang Đông.
    Tôi không đòi hỏi người ta chấp nhận mà không nghi vấn những dấu hiệu văn hóa dân gian hay di truyền và khảo cổ tôi đã mô tả trong cuốn sách này. Có quá ít bằng chứng về di truyền và khảo cổ được tìm thấy và cũng chẳng biết là niên đại của chúng đã chính xác hay chưa. Còn nhiều công việc cần được tiến hành. Điều mà tôi đề xuất là cư dân Đông Nam Á tiền sử xứng đáng được chúng ta xem xét một cách thấu đáo hơn, không phải bằng cái nhìn “thiển cận” (theo cách nói của nhà khảo cổ học Pamela Swadling) về những cư dân tiền sử của vùng này.

    Lấp đầy những khoảng cách
    Khảo cổ học, tuy có vẻ ngoài dường như chính xác, lại có một mắc mứu đặc biệt về những gián đoạn trong tính liên tục do sự dâng cao của mực nước biển gây nên, đặc biệt là cách đây 8.000 năm trong suốt thời kỳ Đồ đá mới. Những gián đoạn này đã đưa đến một bức tranh sai lệch về độ dài thời gian và những đường chân trời giả tạo. Những gián đoạn đáng kể nhất nằm vào giai đoạn Đồ đá mới ở Trung Quốc và Đông Nam Á; những gián đoạn ở Trung Quốc mãi sau này người ta mới nhìn nhận, còn những gián đoạn ở Đông Nam Á thì hầu như bị quên lãng.
    Toàn bộ một kỷ nguyên trong tiền sử Đông Nam Á thế là đã bị đánh mất. Chẳng hạn, có một khái niệm mù mờ rằng một số dân cư thưa thớt của các bộ lạc săn bắn hái lượm đã xuất hiện ở nhiều nơi trên vùng đảo Đông Nam Á như ở Borneo cách đây từ 9.000 đến 3.500 năm, trong khi ở phương Đông, Tân Guinea (Indonesia), các bộ lạc còn đang hành nghề biển và làm vườn. Trái với cái nhìn nguyên thủy về khu vực ấy là bằng chứng về sự phát quang những khu rừng mênh mông ở vùng cao Sumer và Java cách đây 8.000 năm.
    Tuy nhiên, như ta đã biết, nhà khảo cổ học Wilhelm Solheim có đề xuất một quan điểm thay thế rằng những cư dân đầu tiên của đảo Đông Nam Á vào thời gian này đã biết trồng củ, nuôi súc vật, thu hoạch cây trái và trở thành những chuyên gia trong nghề biển. Rất có thể họ đã nói thứ ngôn ngữ tiền thân của tiếng Austronesian nếu nguồn gốc Molluccan của motive chủng loại Polynesian được minh chứng là đúng. Họ có thể đã phát triển mạng lưới thương mại đường biển đến tận Nhật Bản và Hàn Quốc ở phía Bắc xa xôi cách đây 7.000 năm. Dấu vết của mạng lưới này vẫn còn rơi rớt lại đến ngày nay trong những tộc người du cư trên biển ở quần đảo Mã Lai. Họ hàng của họ - có lẽ nói các ngôn ngữ Austro-Asiatic (Úc-Á) - đã phân bố khắp đại lục Đông Nam Á và để lại những di chỉ của họ. Từ lâu đã có ý kiến cho rằng đây là những bộ lạc săn bắn hái lượm khá lạc hậu, nhưng thật ra, người Hoabinhians và Bacsonians đã phát triển kỹ thuật nông nghiệp như làm vườn, trồng lúa và làm đồ gốm.
    Tôi đã dành rất nhiều chỗ trong phần I để tranh luận rằng những người Austronesia đầu tiên đã phân bố đến Thái Bình Dương khoảng hơn 6.000 năm trước. Việc này là có mục đích. Trong khi sự phân bố ở Thái Bình Dương không có liên quan trực tiếp đến sự truyền bá Đông - Tây thì vấn đề tính toán chính xác thời gian chính là nền tảng cho quan điểm quy ước về tiền sử Đông Nam Á. Nói bằng thuật ngữ đơn giản, lý thuyết hiện nay về “chuyến tàu tốc hành từ Trung Quốc đến quần đảo Polynesia” dựa vào một niên đại đến Thái Bình Dương muộn hơn, vào năm 1.500 trước Công nguyên. Nếu như con tàu này không chỉ chưa bao giờ đến gần Trung Quốc mà còn rời khỏi Đông Nam Á ngay sau trận hồng thủy cuối cùng thì ta hoàn toàn có lý do để cho rằng các nhà thám hiểm đã có khả năng đi thuyền về phía Tây cũng vào thời gian đó.
    Cứ liệu khảo cổ học về những thành tựu tiền sử của phương Đông có nhiều khoảng trống hơn là sự kiện, ngoại trừ những mảnh sự kiện rời rạc gợi ý rằng chúng đã mất mát nhiều hơn người phương Tây tưởng. Một vài mảnh sự kiện sớm hơn - gồm cứ liệu về những thủy thủ ở Thái Bình Dương đã đến được đảo Solomon cách nay gần 30.000 năm, đồ sứ cổ của người Nhật có niên đại 12.500 trước, và những người miền núi Tân Guinea mà, như đã nói ở trên, đã biết tháo nước ở các đầm lầy để trồng khoai sọ cách nay 9.000 năm, và sự trồng lúa đã tồn tại từ xa xưa một cách đáng kinh ngạc ở quần đảo Mã Lai, điều này hẳn đã tiên báo sự lan truyền của nghề thủ công đến Ấn Độ. Sau đó ít lâu là trận hồng thủy thứ ba trong thiên niên kỷ thứ 8. Tiếp theo đó là một thời kỳ tương đối im ắng về cứ liệu khảo cổ, từ vùng Đông Nam Á ngập nước do nước biển dâng cao đến 500 mét trong 2.000 năm tiếp theo. Những ngoại lệ là một vài hang động sơ kỳ đồ đá mới có niên đại từ Borneo và quần đảo Philippin cùng với sự xuất hiện của khoáng chất obsidian trên duyên hải phía Đông của Borneo 6.000 năm trước, được trao đổi qua lại từ đảo Lou đến phương Đông cách hàng ngàn dặm biển, rất lâu trước khi những thủy thủ Austronesian đặt chân đến Borneo, chứ chưa nói gì đến đảo Lou.
    Trên lục đại châu Á, từ cuối trận hồng thủy trở đi, chúng ta bắt đầu thấy những khu định cư thời kỳ Đồ đá “mới”, dọc theo vùng đảo phía Đông và Nam Trung Quốc và ở Việt Nam. Tuy nhiên những nhà khảo cổ Đông phương lão luyện đã quan sát kỹ lưỡng những lớp phù sa được tạo nên bởi lụt lội ở các vùng đầm lầy ven biển, và họ đã khám phá ra rằng những nền văn hóa của thời kỳ đồ đá đầu tiên đã có tại đó từ trước trận lụt. Khu định cư nông nghiệp ở Thái Lan và Việt Nam cũng xuất hiện từ thiên niên kỷ thứ 5 trước Công nguyên ở những nơi như Ban Chiang. Có lẽ những người đi khai hoang này đã từ bờ biển di cư vào trong đất liền khi trận lụt xẩy ra; dù sao đi nữa thì những vùng đất nông nghiệp Viễn Đông có niên đại từ thiên niên kỷ thứ 5 trước Công nguyên đã tiếp tục chế tạo đồ đồng vào khoảng thời gian đó như Trung Quốc và Cận Đông cổ đại - và hiển nhiên là độc lập với các nền văn minh này. Nền văn hóa thời kỳ kim loại của Việt Nam sau này đã chế tạo được những đồ vật tinh tế mang đi trao đổi khắp Đông Nam Á và cả vùng Melanesia xa xôi từ rất lâu trước khi có sự xuất hiện của nền văn hóa Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của Ấn Độ. Nền văn hóa ngoại lai thời kỳ đồng thau 3.200 năm tuổi của Sanxingdui ở Trung Quốc còn có nhiều mối liên kết văn hóa với vùng đảo Đông Nam Á hơn là với phương Bắc.
    Khi những mảnh rời của trò chơi ghép hình được xếp lại gần nhau nhiều hơn, một bức tranh trái ngược hiện ra trước mắt ta: những tiến bộ kỹ thuật lớn lao cuối kỷ Băng hà xuất hiện đồng thời trên khắp đại lục Âu-Á và lan đến tận Châu Đại Dương. Một giả thiết như thế xác nhận mối nghi vấn rằng những lộ trình cổ xưa của việc liên lạc liên lục địa ở phương Đông có thể có hiệu quả đáng kể hơn nhiều so với người ta nhìn nhận trước đây. Bức tranh di truyền học và ngôn ngữ học về những sự lan truyền của người Austronesian vào Melanesia và Australia xác nhận rằng sự lan truyền đầu tiên đã khởi phát từ Đông Nam Á vào một thời kỳ sớm hơn nhiều so với lập luận của những người ủng hộ thuyết “Chuyến tàu tốc hành năm 1500 trước Công nguyên đến Polynesia”.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...