Luận Văn Đi tìm độ vênh giữa bản dịch với nguyên tác thơ Đường (Qua SGK THCS từ 1989-nay)

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỞ ĐẦU
    1. Lý do chọn đề tài: Thơ Đường – thành tựu thi ca rực rỡ của văn hóa Trung Hoa đã đi vào Việt Nam từ rất lâu, gây được ảnh hưởng sâu rộng và được nhiều người yêu thích. Trước thế kỉ XX, khi nền Hán học còn phát triển thì người Việt Nam (những người biết chữ Hán) đọc thơ Đường nguyên tác, và đương nhiên tự hiểu được mà không cần bản dịch. Đến những năm đầu thế kỉ XX, nền Hán học của nước ta suy tàn, chữ Hán dần dần được thay thế bằng chữ Quốc ngữ. Khi ấy ta cũng bắt đầu thấy xuất hiện trên báo chí những bản dịch thơ Đường sang Quốc ngữ của những dịch giả nổi tiếng như Tản Đà, Ngô Tất Tố . Những bản dịch này đã đưa thơ Đường đến với nhiều tầng lớp độc giả Việt Nam. Từ đó, dịch thơ Đường đã trở thành một mảng rất quan trọng trong việc tiếp nhận thơ Đường ở nước ta. Bản thân những bản dịch cũng là sự thể hiện cách tiếp nhận của một tầng lớp đặc biệt trong xã hội – tầng lớp trí thức có những hiểu biết nhất định về Hán văn và Đường thi. Trong đó, những bản dịch được đưa vào sách giáo khoa (SGK) để dạy thơ Đường cho HS phổ thông là những bản dịch phổ biến, được nhiều người biết đến, và cũng có thể coi là đại diện cho một cách tiếp nhận mang tính chính thống- cách mà HS được hướng theo.

    Ở một khía cạnh khác, dịch văn học, nhất là dịch thơ là công việc gây rất nhiều tranh cãi. Thậm chí có người cho rằng thơ không dịch được (Hồng Thanh Quang)[19]. Quan điểm này có vẻ cực đoan, song không phải không có lý, bởi vì có cố gắng thế nào cũng khó có được một bản dịch trung thành với bài thơ nguyên tác cả về hình thức và nội dung, không thể tạo được một bản sao của bài thơ bằng một ngôn ngữ khác. Ai cũng biết rằng “xưa nay thơ càng hay càng khó dịch. Vì cái hay của nguyên tác đa diện quá, đa dạng quá, sức chứa phong phú quá, người dịch làm sao chuyển tải nổi”[22]. Đối với thơ Đường thì việc dịch lại càng khó khăn hơn nhiều. Bởi đó phần nhiều là những bài thơ “ý tại ngôn ngoại”, tình cảm sâu xa, diễn đạt bằng vài trang lời văn chưa chắc đã hết, nói chi đến việc gói gọn trong vài dòng thơ tiếng Việt. Và do vậy, có những độ vênh giữa bản dịch và nguyên tác là điều khó tránh khỏi. Với đặc điểm đó, việc dịch thơ Đường có thể coi là một thử thách cho những người có tâm huyết với thơ Đường (và có tài dịch thơ). Ai cũng dồn hết tâm lực và tinh túy của ngòi bút có khi chỉ cốt để có được một bản dịch “để đời” cho một kiệt tác Đường thi. Những bản dịch được chọn đưa vào SGK phổ thông để dạy cho HS có lẽ cũng là những bản dịch “để đời” của các dịch giả. Với mong muốn giúp HS hiểu và cảm nhận phần nào ý nghĩa và cái hay của những bài thơ Đường bất hủ, hẳn là những người biên soạn SGK đã chọn những bản dịch mà họ cho là hay và sát nhất với nguyên tác. Sát đến mức nào là vấn đề sẽ được làm rõ trong niên luận này.

    Không phải ngẫu nhiên mà chúng tôi chọn đề tài: Đi tìm độ vênh giữa bản dịch với nguyên tác thơ Đường (Qua SGK THCS từ 1989-nay). Ở cấp THCS, lần đầu tiên HS HS được tiếp cận với một số bài thơ đại diện cho Đường thi – đỉnh cao của thơ ca Trung Quốc và thế giới. Và do vốn từ Hán Việt còn hạn chế, việc tiếp cận của HS chủ yếu là thông qua các bản dịch thơ. Vì vậy, những bản dịch này có vai trò hết sức quan trọng đối với việc hình thành sự hiểu biết và những cảm nhận đầu tiên của HS về các tác phẩm nổi tiếng của một nền văn học lớn. Độ vênh giữa bản dịch và nguyên tác càng ít thì sự cảm nhận của HS càng đầy đủ và chính xác hơn. Do đó, cần thiết phải tìm hiểu độ vênh này để: trước hết là có một cái nhìn toàn diện hơn về hướng giảng dạy thơ Đường trong chương trình THCS từ 1989 đến nay; tiếp theo là đánh giá chính xác hơn về vai trò của các bản dịch đối với việc dạy thơ Đường cho HS THCS hiện nay. Mặt khác cũng là để nhìn nhận lại một trong rất nhiều cách tiếp nhận Đường thi ở Việt Nam – cách tiếp nhận của những người làm công tác dịch thuật (qua chương trình SGK PTCS).

    2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: Thơ Đường đã được đưa vào SGK THCS từ năm 1989, song đến nay những công trình nghiên cứu về nó chưa phải là nhiều, trong đó khía cạnh mà chúng tôi đang xem xét rất ít được đề cập đến. Do điều kiện khảo sát còn hạn chế, dưới đây chúng tôi xin điểm qua một số công trình nghiên cứu nổi bật có liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu.
    Trong cuốn Thơ Đường ở trường phổ thông do Hồ Sĩ Hiệp tuyển và biên soạn (Nxb Tổng hợp Khánh Hòa, Khánh Hòa, 1991) chỉ có những bài giới thiệu và phân tích một số bài thơ Đường nổi tiếng và các nhà thơ tiêu biểu.
    Cuốn Bình giảng thơ Đường (theo sách giáo khoa Ngữ văn mới) của Nguyễn Thị Bích Hải (Nxb Giáo dục, H., 2003) cũng chỉ trình bày những kiến thức về thơ Đường và việc dạy học thơ Đường trong trường phổ thông, nêu những vấn đề có tính phương pháp trong việc tìm hiểu thơ Đường.
    Cuốn Thơ Đường bình giải của Nguyễn Quốc Siêu (Nxb Giáo dục, tái bản lần thứ 5 năm 2005) thì giới thiệu lại và thêm phần bình những bài thơ Đường đã được chọn tuyển trong SGK Văn học 9 (sách chỉnh lí năm 1995) và Văn học 10 (ban KHXH). Trong đó cũng có nói đến một số chỗ chưa chính xác của một vài bản dịch thơ trong SGK, nhưng còn sơ lược, và đa số là chọn lại những bản dịch mà SGK đã chọn.
    Chúng tôi cũng đã có điều kiện đọc một khóa luận tốt nghiệp được viết khá công phu là Đường thi trong sách giáo khoa phổ thông ở Việt Nam của Mạnh Thị Minh (Tư liệu khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội). Trong khóa luận này, người viết chủ yếu là thống kê lại quá trình thơ Đường được đưa vào giảng dạy trong chương trình môn Văn phổ thông ở Việt Nam, đồng thời đề xuất phương pháp dạy học, giúp HS tìm hiểu thơ Đường.
    Ở góc độ dịch thuật, đáng chú ý nhất là một luận án Phó tiến sĩ với đề tài Vấn đề dịch thơ Đường ở Việt Nam - Nguyễn Tuyết Hạnh[11]. Tuy nghiên cứu trực tiếp về vấn đề dịch thuật Đường thi, nhưng luận án này đi sâu tìm hiểu lịch sử, quá trình dịch thơ Đường ở Việt Nam và việc dịch Đường thi theo hai thủ pháp nghệ thuật chủ yếu là phác diễn và đối lập, không quan tâm đến độ vênh giữa bản dịch thơ và nguyên tác.
    Như vậy, những cuốn sách (công trình nghiên cứu) trên đây chỉ đề cập đến thơ Đường trong trường phổ thông nói chung và THCS nói riêng ở khía cạnh phân tích, bình giảng, hướng dẫn dạy và học chứ chưa đi sâu vào việc đi tìm độ vênh giữa các bản dịch và nguyên tác. Những công trình nghiên cứu trực tiếp về dịch thơ Đường thì lại nghiên cứu ở phạm vi rất rộng (Việt Nam), và ở các góc độ lịch sử, thủ pháp dịch Việc tìm hiểu và lý giải độ vênh giữa bản dịch và nguyên tác các bài thơ Đường trong SGK THCS chưa được chú trọng nghiên cứu. Vì vậy, ở niên luận này, chúng tôi sẽ thực hiện công việc đó với hi vọng có thêm một đóng góp nhỏ vào việc nghiên cứu thơ Đường trong SGK phổ thông ở nước ta.
    3. Phạm vi nghiên cứu: Với đề tài đã nêu, ở niên luận này chúng tôi chỉ tìm hiểu độ vênh giữa bản dịch và nguyên tác của các tác phẩm thơ Đường nằm trong chương trình SGK môn Văn THCS, từ năm 1989 đến nay. Cụ thể là những bài thơ Đường trong các sách:
    - SGK Văn 9, tập 2, Nxb Giáo dục, 1989.
    - SGK Văn học 9, tập 2, Nxb Giáo dục, 1995.
    - SGK Ngữ văn 7, tập 1, Nxb Giáo dục, 2003.
    4. Phương pháp nghiên cứu: Theo quan điểm nghiên cứu văn học, các bản dịch thơ Đường mà chúng ta sẽ xem xét dưới đây là các tác phẩm văn học dịch, kết quả của công việc dịch văn học – một khâu rất quan trọng trong quá trình tiếp nhận các tác phẩm văn học nước ngoài (ở đây là các bài thơ Đường nguyên tác). Người dịch thực chất là một người tiếp nhận đặc biệt, đã cụ thể hóa và phổ biến cách tiếp nhận của mình qua các bản dịch thơ. Việc tiếp nhận của họ (đọc, hiểu và dịch), nếu xét trong phạm vi hẹp thì là chịu sự chi phối của các yêu cầu dịch văn học. Nhưng xét ở phạm vi rộng và toàn diện hơn thì do các yếu tố của tiếp nhận văn học chi phối (kinh nghiệm, văn cảnh, nhu cầu ) Vì vậy, đối với đề tài này, chúng tôi sẽ áp dụng các phương pháp nghiên cứu từ chuyên biệt (dùng trong nghiên cứu, đánh giá văn học dịch) đến các phương pháp riêng ngành của nghiên cứu văn học (ở lĩnh vực tiếp nhận). Cụ thể như sau:
    · Để tìm độ vênh giữa các bản dịch và nguyên tác, chúng tôi dùng các phương pháp:
    - Phương pháp thống kê: hệ thống lại các tác phẩm thơ Đường và những bản dịch đã được chọn đưa vào SGK (dịch giả, các bản dịch )
    - Phương pháp phân tích định lượng và định tính: với hình thức thì định lượng, với nội dung thì định tính
    - Phương pháp phân tích ngữ nghĩa và so sánh
    Khi so sánh để tìm độ vênh giữa bản dịch và nguyên tác, hay sự khác nhau giữa các bản dịch được chọn, chúng tôi áp dụng các tiêu chuẩn so sánh cụ thể chứ không hoàn toàn căn cứ theo các tiêu chuẩn có tính nguyên tắc khi đánh giá, nghiên cứu văn học dịch là tín, đạt, nhã.
    · Để hiểu và lí giải độ vênh thấy được ở trên, chúng tôi áp dụng các phương pháp ở cấp độ lớn hơn:
    - Mỹ học tiếp nhận.
    - Xã hội học văn học, Văn hóa học.
    5. Cấu trúc niên luận: Niên luận ngoài Mở đầu và Kết luận ra, Nội dung gồm có 2 chương:
    Chương 1: Tình hình dịch thuật Đường thi qua SGK THCS
    1.1. Các bản dịch thơ Đường trong SGK THCS
    1.2. Độ vênh giữa các bản dịch và nguyên tác thơ Đường trong SGK
    Chương 2: Dịch giả và phương thức dịch thuật
    2.1. Dịch giả
    2.2. Phương thức dịch thuật
     
Đang tải...