Tài liệu đi tìm ẩn ngữ thơ Hoàng Cầm

Thảo luận trong 'Ngôn Ngữ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: đi tìm ẩn ngữ thơ Hoàng Cầm

    [TABLE]
    [TR]
    [TD=colspan: 3]Đi t́m ẩn ngữ thơ Hoàng Cầm (Phần 1)
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD=colspan: 3]08:03' 23/09/2008 (GMT+7)
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD=colspan: 3][​IMG] - Giấc mơ Về Kinh Bắc này là sự siêu thăng của mặc cảm Oedipe, một thực tại siêu thực trong vô thức của Hoàng Cầm. Hoặc v́ cái siêu thực ấy, trong mắt nh́n của hữu thức, là quá dung tục, hoặc v́ nó quá tế vi, nên đa số những h́nh ảnh của giấc mơ không phải là những kí hiệu b́nh thường, đơn nghĩa, hoặc những h́nh ảnh so sánh, mà đều là những h́nh ảnh tượng trưng, hay ẩn dụ, thậm chí huyền thoại.
    Mỗi người
    thăm
    thẳm
    một chiêm bao
    Trần Dần.

    [TABLE=width: 193, align: right]
    [TR]
    [TD][​IMG]
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Nhà thơ Hoàng Cầm (ảnh: Nguyễn Đ́nh Toán)
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    Tôi gặp Hoàng Cầm lần đầu tiên vào những năm bảy mươi. Tập thơ Về Kinh Bắc bây giờ c̣n bản thảo. Một sổ b́a cứng, giấy carô và những con chữ phóng túng như muốn vượt ra ngoài lề. Đặc biệt, thỉnh thoảng lại có một bức tranh minh họa của Bùi Xuân Phái, Sỹ Ngọc ., hay của chính nhà thơ. Về Kinh Bắc với những giai thoại về số phận của nó đă gây cho tôi một ấn tượng bàng hoàng. Tôi nài Trúc Thông dẫn tôi đến nhà Hoàng Cầm. Bấy giờ ông được phép mở quán rượu tại gia để lấy tiền độ nhật. Hoàng Cầm là một người dong dỏng, đẹp trai, giọng nói ấm áp, cách nói hấp dẫn, hơi tŕnh diễn, và đầy một sự dịu dàng nữ tính. Ông thật tương phản với tất cả những ǵ xung quanh: căn nhà cấp bốn lụp xụp, tối tăm và lũ tửu đồ thô kệch mà ông phải lăng xăng phục vụ. Tôi và Trúc Thông chọn một góc khuất, gọi hai chén rượu và ngắm Hoàng Cầm.
    Về Kinh Bắc với tôi có một ma lực khó giải thích. Cả về sau này, năm 1994, khi tập thơ đă được trang trọng in ra, tôi vẫn không thôi cảm giác ấy. Hóa ra, sự lạ lùng khó hiểu đó không phải do những hào quang phụ gây ra, như t́nh trạng tồn tại bán hợp pháp bấy giờ của tập thơ, thứ rượu “quốc lủi” mà Hoàng Cầm bán cho khách, cái không khí âm thầm của một tửu quán ., mà ở chính tập thơ. Một quyến rũ khó hiểu.
    Có lần, ở nhà Hoàng Cầm, trong lúc vui rượu, tôi có nói với ông sẽ viết một bài “nghiêm văn chỉnh” về thi phẩm Về Kinh Bắc. Rồi, sau nhiều đêm thao thức mà vẫn không t́m được một lối đi vào miền thơ ấy, tôi mới thấy hết cái dại miệng của ḿnh. Sao không làm theo lời khuyên của Xuân Diệu: Ai đem phân chất một mùi hương .? Nhất là thứ huơng nữ thoang thoảng của thơ Hoàng Cầm. Sự đọc đi đọc lại nhiều lần thơ ông chỉ làm đầu óc tôi thêm trống rỗng. Có lẽ, trong sự rỗng không ấy, vô thức của người đọc dễ bị mồi chài bởi vô thức của tác phẩm. Và, một đêm kia, tôi bỗng được mặc khải.
    ***
    Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc
    Con người từ mẹ sinh ra, nhưng muốn lớn được phải tách mẹ. Mỗi bước trưởng thành là một bước ĺa xa nguồn cội. Nhưng càng đi xa bao nhiêu th́ ḷng về càng nặng bấy nhiêu. Phải chăng đó là nghịch lí của phận người? B́nh thường không phải ai cũng nhảy ra khỏi cỗ xe thời gian đang lăn về phía trước. Chỉ những khi vấp ngă, người ta mới quay về ḷng mẹ để t́m sự an ủi, giải thoát .
    Hoàng Cầm, sau vụ Nhân văn Giai phẩm, đă thực hiện một trở về như vậy. Có điều trong ông, lúc này, h́nh ảnh mẹ lồng khung vào quê hương thời thơ ấu, c̣n thi nhân th́ dẫu muốn, nhưng không thể tắm hai lần trên ḍng sông xưa. Ông chỉ có thể ngồi ở Hà Nội, trong ngôi nhà thụt sâu 43 Lư Quốc Sư, làm một trở về bằng tưởng tượng. Vết nứt tâm - địa chấn và sự gián cách khởi đời sống xă hội càng làm cho nhà thơ dễ ch́m vào giấc mơ hồi cố[SUP]1[/SUP]. Tập thơ Về Kinh Bắc được viết ra trong mấy tháng cuối 59 đầu 60 là biểu thị của giấc mơ này:
    Ta con chim cu về gù dặng tre
    đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng
    đưa mây lành những phương trời lạ
    Về tụ nóc cây rơm
    (Về với ta)
    Về Kinh Bắc là một giấc mơ. Không chỉ là Hoàng Cầm viết trong trầm mộng, mà chính v́ thi phẩm có đường nét của giấc mơ. Có thể nói, đó là một galerie những bức ảnh ấu thời, ảnh hội hè đ́nh đám xứ Bắc, ảnh con người của đời thường và của huyền thoại, ảnh động vật, cây cối Nhưng lạ là những h́nh ảnh này như được bày biện bởi bàn tay một người đăng trí, kẻ mộng du hay một đứa trẻ. Tấm này đứng cạnh tấm kia ngẫu nhiên, không chủ ư, hoặc ít thấy liên lạc với nhau. Bởi thế, đọc Hoàng Cầm, dù thơ ông không ngọng nói như Lê Đạt, người ta vẫn thấy khó hiểu. Sự khó hiểu có khi ở bản thân một h́nh ảnh tân ḱ: Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh. Thường hơn, bởi có nhiều khoảng trắng. Về Kinh Bắc không c̣n sự đều đặn ở số chữ trong câu, số câu trong khổ như Thơ Mới và thơ Hoàng Cầm trước đấy (Hôm qua thu mới về / Với một cành hoa gẫy / Sương nặng gieo đầu tre / Lạnh tràn theo gió đẩy - Thu - Huy Cận; hoặc Tôi chỉ xin nàng đôi giọt lệ / Cài lên lá cỏ phía quê hương - Kiều Loan - Hoàng Cầm, 1942). Sự xuống ḍng đột ngột, xé câu, leo thang chữ đă để hở ra nhiều khoảng trắng hơn:
    Ngày Chị bảo em quên
    Tranh tố nữ long hồ gián nhấm
    mất chân đi
    má đội tổ ṭ ṿ
    Cuốn chiếu xa rồi
    thơ thẩn vách chiêm bao
    (Nước sông Thương)
    Khoảng trắng trong thơ Hoàng Cầm là chỗ trống của giấc mơ. Một cuốn băng ghi h́nh bị ư thức xóa đi chỉ c̣n lỗ mỗ những h́nh ảnh. Đó c̣n là khoảng trắng của sự không nói, của im lặng. Im lặng của khó nói, im lặng của lời nói bị hăm đà đột ngột, và im lặng của đối thoại câm:
    Em mười hai tuổi t́m theo Chị
    Qua cầu bà Sầm bến cô Mưa
    Đi .
    (Quả vườn ổi)
    Hai ngày Em t́m thấy Lá
    Chị chau mày
    đâu phải lá Diêu bông
    Mùa đông sau Em t́m thấy Lá
    Chị lắc đầu
    trông nắng văn bên sông
    Ngày cưới Chị
    Em t́m thấy Lá
    Chị cười xe chỉ ấm trôn kim
    Chị ba con
    Em t́m thấy lá
    X̣e tay phủ mặt Chị không nh́n
    (Lá Diêu bông)
    Âm vang của im lặng trong Về Kinh Bắc ở liên tưởng đứt đoạn, đột ngột. Trước đây, thơ Hoàng Cầm thiên về lối liên tưởng liền mạch, dựa trên sự kề cận: con thuyền thơ cứ nhẹ nhàng xuôi sông ra biển (Ai về bên kia sông Đuống, Có nhớ từng khuôn mặt búp sen, Những cô hàng xóm răng đen, Cười như mùa thu tỏa nắng - Bên kia sông Đuống). ở thi phẩm này, nhà thơ chuyển sang lối liên tưởng đứt đoạn, theo sự tương tự giữa hai sự vật. Có điều sự tương tự đó chưa chắc đă tồn tại trong thực tế, mà chỉ do cái nh́n riêng của nhà thơ tạo lập. V́ thế, người đọc, một khi chưa nhập kịp vào tác giả, cảm thấy ngỡ ngàng:
    Khấn thầm như mẹ lỡ đ̣ ngang
    Miệng hé hạt na nḥa bến vắng
    Bao giờ mẹ về
    Buộc yếm đào phai vỗ hát ru
    (Đợt mùa)
    Ta c̣n phù du ao trời chật chội
    đứng cánh bèo đo gió lặng t́m sao
    uống nước mắt con vành khuyên nhớ tổ
    vừa rụng chiều này
    dềnh mặt trước hương sen
    Ta soi
    chỉ c̣n ta đạp lùi tinh tú
    Ngủ say rồi
    Đôi cá đ̣ng đong
    (Về với ta)
    Kể ra, điều này cũng không có ǵ mới. Xưa nay, thơ hay bao giờ cũng có những liên tưởng đột ngột, tạo ra sự bất ngờ nghệ thuật. Nhiều nhà thơ cổ điển, cũng như Thơ Mới, đă thành tựu ở mặt này. Điều đáng nói ở đây là trong Về Kinh Bắc (nhất là Nhịp một: Khấn Nguyện và Nhịp năm: C̣n Em) liên tưởng thơ Hoàng Cầm dường như trở về giai đoạn liên kết tự do các ư tưởng, giai đoạn chuyên sử dụng biểu tượng chỉ có ở người nguyên thủy, hoặc trẻ em: lối tư duy gọi là tiền logic (Lévi - Bruhl) hay logic khác (Lévy - Strauss). Hoàng Cầm có được thứ bảo bối này bởi ông là nghệ sĩ, một thứ người - lớn - trẻ - con, một sự lại giống, một người mơ.
    Về Kinh Bắc là một tác phẩm - giấc mơ. Cũng những h́nh ảnh vừa chồng chất vừa rời rạc, những khoảng trắng, những lời câm, sự liên tưởng tự do Giấc mơ bao giờ cũng ẩn chứa những ham muốn vô thức. Bao khao khát bản năng, yêu ghét thường t́nh không bộc lộ được bởi sự ngăn trở của văn hóa, của lẽ phải thông thường, của hữu thức. Nó bị đẩy lùi vào tiềm thức, rồi vô thức và bị nhốt vào quên lăng. Nhưng rồi đêm đến, hoặc khi tâm trí “có vấn đề”, sự kiểm soát bị lơi lỏng, những dồn nén đó bung ra, thăng hoa thành giấc mơ, thành sáng tạo nghệ thuật. Thơ Hoàng Cầm là một là một giấc mơ lớn, giấc mơ cả đời người, nên nó hẳn chứa đựng một ham muốn căn cốt, phát sinh từ thời thơ ấu
    ***
    Về Kinh Bắc có tám nhịp (1. Khấn nguyện, 2. Kiếp trước, 3. Rũ bụi gia phả, 4. Rồi tất cả cùng đi, 5. C̣n Em, 6. Điểm trang, 7. Rồi lại đi, 8. Về với ta) th́ sức nặng dồn cả vào nhịp năm, c̣n nhịp năm th́ dồn cả vào 5 bài thơ Em Chị: Cây Tam Cúc, Lá Diêu Bông, Quả vườn ổi, Cỏ Bồng Thi, Nước Sông Thương. Điều đặc biệt ở năm bài thơ này là nhân vật trữ t́nh, nhân vật xưng Em, là một cậu trai 8 tuổi, c̣n chị là một cô gái hàng xóm gấp đôi tuổi em bấy giờ. Những “em” khác trong thơ Hoàng Cầm đều chỉ là những cô gái, những người đàn bà (trừ ở hai bài Gọi Đôi và Chị Em Xanh ở ngoài tập Về Kinh Bắc).
    Mảnh đất Kinh Bắc vốn nhiều hội hè, thời gian mà một số những e dè được cỏi bỏ. Hơn nữa, đến thời Pháp thuộc, nhiều hành động hội mang ư nghĩa phồn thực đă nhạt dần chất thiêng, đậm dần chất tục. Nên những câu quan họ t́nh tứ, lẳng lơ không chỉ quyến rũ trai gái “đương th́”, mà c̣n thức sớm t́nh yêu ở cả những cậu trai “miệng c̣n hơi sữa”. Hoàn cảnh đánh thức cậu bé Hoàng Cầm này thật là điển h́nh: một buổi tối chầu ŕa đám chơi tam cúc. Không gian ấm cúng: ổ rơm (- Rút trộm rơm nhà đi trải ổ; ổ rơm thơm đọng tuổi đương th́; một sự gần gụi: hơi tóc ấm, má đỏ, - đọng tuổi đương th́; và rất nhiều gợi nhắc: gọi đôi, trầu, xe hồng, chui xấp ngửa T́nh yêu chớm nở ở đây đồng nghĩa với t́nh dục. Đó là t́nh trai gái, sự thức tỉnh giới tính đầu tiên ở cậu bé. Nhưng điều oán oăm là ở chỗ đối tượng t́nh cảm của Em lại là Chị nên điều đó có vẻ như không được phép. Bởi vậy, muốn thỏa măn được giấc mơ t́nh dục đó chỉ c̣n có cách mơ cưới được chị. Hơn nữa, trong xă hội cổ truyền, t́nh dục chỉ được có sau và trong hôn nhân. Người ta thấy thơ t́nh Hoàng Cầm nói nhiều đến hôn nhân là v́ vậy. Nhưng rồi giấc mơ trong mơ ấy không thành: Quan Đốc Đồng áo đen nẹp đỏ, Thả tịnh vàng cưới chị / vơng mây trôi. Có thể quan Đốc Đồng dựa vào quyền uy (áo đen nẹp đỏ) hoặc tiền bạc (thả tịnh vàng) để cưới chị, nhưng sự vỡ mộng của em không phải do viên quan ấy theo ác cảm trẻ thơ hay thành kiến giai cấp, mà do số phận (đỏ đen) trong cuộc chơi của nó (mà Chị hay Em chỉ là một Cây tam cúc), hoặc do chính tự thân t́nh cảm đó: Lá Diêu Bông.
    Lá Diêu Bông là một ảo tưởng, một ảo tưởng t́nh yêu. Lá Diêu Bông, cũng như Đền Bà Sấm, Bến Cô Mưa , không phải là có thật. Nhưng có một sự thật khác là Lá Diêu Bông, do âm hưởng, gợi đến lá vông, tức bộ phận sinh dục nữ (ca dao: Ngồi lá vông, chổng mông lá chốc; Hồ Xuân Hương: Đố ai biết được vông hay chốc hoặc chính h́nh dạng chiếc lá: ngồi lá tre, tè he lá mít) tức thân thể người phụ nữ, tức giấc mơ t́nh dục ở cậu bé.
    Bài thơ như một đối thoại câm diễn ra trong một không gian buồn, cánh đồng chiều sau thu hoạch chỉ c̣n trơ lại toàn cuống rạ, thơ thẩn hai bóng người, Chị đi t́m Em đi t́m
    Chị bảo
    Đứa nào t́m được Lá Diêu Bông
    Từ nay ta gọi là chồng
    (Lá Diêu Bông)
    Hóa ra, Chị đi t́m t́nh yêu, Em cũng đi t́m t́nh yêu. Như trong huyền thoại xưa, thuở khai thiên lập địa, loài người trên đời chỉ mới có hai chị em. Họ chia tay mỗi người một ngả hẹn gặp ai th́ lấy người ấy. Nhưng có ai đâu nên cuối cùng sau vài lần vẫn chỉ chị gặp em, em gặp chị. Và họ đành phải lấy nhau. Loài người đông đàn dài lũ hiện nay được sinh ra từ cái cặp đôi chị - em - vợ - chồng khởi nguyên ấy. Nhưng hậu thế, cũng là để bảo vệ và duy tŕ ṇi giống, th́ không thể cho phép cái t́nh chị - em - trai - gái ấy. Chị biết thế nên Chị đă đưa ra một chiếc lá không hề có, cũng như cái t́nh cảm kia là không thể có. Nhưng Em vẫn t́m thấy Lá tức muốn khẳng định cái khồng thể đó, khẳng định t́nh cảm đó. Nhà thơ chỉ nói Em t́m thấy lá chứ không nói lá Diêu Bông là lấy cớ để cho chị chối đâu phải lá Diêu Bông, nhưng thực ra cả hai đều hiểu lá ấy là ǵ rồi. Kịch cảnh ở đây phảng phất như cuộc chơi đố lá (để thỏa ḷng t́m hoa) của trai thanh gái lịch thời xưa, nhưng lại không phải như vậy, v́ đây là cuộc đời, là chuyện nghiêm trọng. Bởi vậy, cứ mỗi lần Em t́m thấy Lá th́ đau khổ của chị cứ tăng dần:
    Lần 1: Chau mày / Đâu phải lá Diêu Bông (chối cho có chuyện).
    Lần 2: Lắc đầu / Trông nắng văn bên sông (thẫn thờ).
    Lần 3: Cười xe chỉ ấm trôn kim (gượng gạo).
    Lần 4: X̣e tay phủ mặt chị không nh́n (đau khổ).
    Nhiều người cho lá Diêu Bông là ám chỉ một ảo tưởng chính trị, nên cho rằng Chị đă cố ư lừa dối Em. Thực ra, Chị đứng trước một sự thật không thể nên cũng đau khổ như Em. Em chưa hiểu v́ c̣n trẻ, v́ thuần bản năng, nhưng Chị th́ hiểu, nhưng khó nói được. Vậy nên Em cứ theo Chị mà mè nheo:
    Cách nhau ba bước vào Vườn ổi
    Chị xoạc cành ngang
    Em gốc cây
    Xin Chị một quả chín!
    Quả chín quá tầm tay
    Xin Chị một quả ương
    Quả ương chim khoét thủng
    (Quả vườn ổi)
    Quả ổi đây rơ ràng làm một thứ trái cấm. Chị leo lên cây, xoài người ra cành ngang hái. Chị trở thành trái cây. Em đứng ở gốc cây. Những chữ xoạc (Hồ Xuân Hương: Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài) và gốc cây (câu đố: Có cây mà chẳng có cành, Có hai ḥn đá để dành gốc cây) làm hai câu thơ miêu tả này hóa thành hai câu thơ định nghĩa, chị = xoạc cành ngang (chú ư thêm đến ba trong ba bước, tam giác); Em = gốc cây. Và đă là trái cấm th́ không hái được, t́nh thế của hai Chị Em là t́nh - thế - Cỏ - Bồng - Thi:
    Chị đưa em đến bến này
    Cheo leo mỏm đá
    Trước vực
    Sau khe
    Tḥng lọng tơ ǵ quấn gót
    Tua khăn buông c̣n buộc búp hoa lan
    Ù ù gió thổi
    Em vọng ai đâu mà hóa đá.
    (Cỏ Bông Thi)
    Đă ở ngoài sự cho phép th́ phải nguy hiểm. Thế đứng phải cheo leo mỏm đá. Những từ vực, khe, tḥng lọng, trói, dây muống dại kín rồi làm ta nghĩ đến những h́nh phạt treo cổ, ném xuống vực sâu, trói trôi sông, trầm ḿnh dành cho những người phạm tội chửa hoang, loạn luân trong các xă hội cổ truyền.
    Và cuối cùng, t́nh cảm đó dừng lại ở sự nước đôi (ambivalence): muốn quên / không quên, thương / giận, yêu / ghét như con Nước Sông Thương kia từ bao đời nay vẫn chảy đôi ḍng.
    Tóm lại, qua 5 bài thơ Chị - em, có thể thấy được sơ đồ cảm hứng của nhà thơ là: có sự ham muốn t́nh dục với một người lớn tuổi hơn, muốn cưới để thỏa măn ham muốn này trong sự hợp thức hóa (Cây Tam Cúc), nhưng không được người nữ chấp nhận (Lá Diêu Bông, Quả vườn ổi) và cũng không được xă hội chấp nhận v́ không hợp lẽ và nguy hiểm (Cỏ Bồng Thi) nên rơi vào t́nh trạng nước đôi, vừa yêu vừa ghét, vừa thương mến vừa hờn giận, vừa muốn quên vừa mong nhớ (Nước Sông Thương). Đây cũng là cấu trúc cảm hứng của toàn bộ tập Về Kinh Bắc, và toàn bộ sáng tác của Hoàng Cầm.
    Thi sĩ biết yêu từ tuổi lên tám không phải là chuyện lạ trên thi đàn thế giới. Dante (1265 - 1321), thi sĩ mở đầu cả thời đại Phục Hưng, vào năm lên tám, trong một vũ hội đă yêu Béatrice. Lermontov (1814 – 1841) cũng vậy, lần đầu tiên theo bà ngoại đi nghỉ suối nước nóng ở Kavkaz cũng phải ḷng một cô bé. T́nh yêu của Hoàng Cầm với chị Vinh, đặc biệt hơn ở chỗ Chị là người lớn tuổi. Đó không đơn giản chỉ là t́nh yêu trai gái thuần túy, mà có lẽ là sự phóng chiếu của một t́nh cảm khác, mặc cảm Oedipe (Complexe d’Oedipe)[SUP]2[/SUP].
    Là một di sản của loài người từ thời tiền sử, thậm chí tiền nhân loại, mặc cảm Oedipe có trong mỗi người. Nhưng sự diễn biến b́nh thường hay nổi cộm của nó, và do đó, quá tŕnh hóa giải nó th́ không ai giống ai. ở những người thời thơ ấu có hoàn cảnh đặc biệt gây ra những chấn thương tâm lí, những ám ảnh hoặc những huyễn tưởng cá nhân, th́ phức cảm này dâng lên và cuộn thành một cơn lốc xoáy, và sự giải tỏa nó là vô cùng khó khăn, có khi là công việc của cả đời người. Hoàng Cầm là một người có tuổi thơ không b́nh thường.
    Mẹ Hoàng Cầm là một cô gái làng Bựu, một làng quan họ nổi tiếng, làng đă sinh ra bà Trần Thị Tần, mẹ thi hào Nguyễn Du. Bà cũng là một cô gái quan họ, có giọng hát hay lại có nhan sắc. “Một cô gái Kinh Bắc có nhan sắc óng ả, kiều diễm, có đôi mắt “lúng liếng” thật t́nh tứ, đôi mắt rất quan họ, có dáng đi đài các, uyển chuyển, thanh tao, và khi mẹ tôi mặc chiếc váy lụa kiểu Đ́nh Bảng, mép váy buông chùng cửa vơng xuống đến mu bàn chân, ai trông thấy phía trước đều tưởng như người con gái này đang đi trên sóng dập dờn” (Vĩ Thanh, tr 150). Một người đàn bà tài sắc như vậy mà đến khi làm vợ, làm mẹ lại phải chịu một cuộc sống hẩm hiu. Ông bà lấy nhau rồi chê nhau đến trên mười năm trời. “Bố tôi nguyên là một nhà nho, ba lần thi trường Nam Định không đậu nổi cái cấp hạng bét là tam trường, sau đó bất đắc chí, bỏ làng đi dạy học lang thang, rồi làm thầy lang cũng lại lang thang chữa bệnh khắp các huyện trong hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang” (Vĩ Thanh, tr. 152). Bởi vậy, khi Hoàng Cầm sinh ra, mẹ nhà thơ phải vượt cạn một ḿnh, rồi cũng một ḿnh tần tảo nuôi con . Nhà thơ đă sớm cảm nhiễm cái gia cảnh của ḿnh. Ta hăy nghe ông tâm sự: “Không hiểu sao, tôi sớm có cái buồn cô đơn ngay từ những năm lên sáu, lên bảy tuổi. Bẩm sinh chăng? Hay chính nỗi buồn của người con gái tài sắc lấy chồng từ năm mười bảy tuổi mà phải sống cô đơn đến hơn mười năm?” (Vĩ Thanh, tr.154). Nỗi buồn ấy thực ra là mặc cảm Oedipe, yêu mẹ ghét bố, mà nhà thơ, chưa nói là bấy giờ mà ngay cả bây giờ, vẫn chưa ư thức được. Nhưng cứ đọc lại những đoạn văn mà ông mô tả mẹ ḿnh, bạn sẽ thấy Hoàng Cầm nh́n mẹ bằng cặp mắt đàn ông. Và khi nói về bố th́ bằng cái giọng không mặn mà lắm lại c̣n pha chút giễu cợt nữa (“Không đậu nổi cái cấp hạng bét”, “bỏ làng”, “cũng lại” .). Trong tập thơ Về Kinh Bắc chúng ta thấy rơ hơn điều đó.
    Tuy nhiên, thực tế tâm phân cho thấy cái tam giác cha - con - mẹ trong mặc cảm Oedipe không phải bao giờ cũng nguyên vị như thế, mà luôn có những trường hợp chuyển vị. Có sự thiên di như vậy phải chăng do đứa trẻ cảm nhận được tội lỗi trong cái phức tâm ấy? Ngôi cha có thể chuyển sang một người đàn ông khác. Ngôi mẹ cũng vậy. ở Hoàng Cầm, t́nh yêu với mẹ đă được di chuyển sang Chị, Chị - Vinh - cô - hàng - xóm. Sự di chuyển ít khi ngẫu nhiên, mà thường cũng có thể do những nét tương đồng nào đó giữa Mẹ và Chị: Cả hai người đều đẹp và hát quan họ hay. “Một chiều thứ bảy, khoảng hơn 4 giờ, tôi về nhà thấy một cô gái đang mua ǵ của mẹ tôi. Khi cô ấy ngửng đầu lên, nh́n ra đường th́ cậu bé tám tuổi choáng người ( .). Rồi thứ bảy sau, về nhà, tôi trao bức thư tỏ t́nh đầu tiên viết bằng thơ lục bát, dài hơn một trang giấy kẻ học sinh trên có vẽ hoa vẽ bướm, một vài ngọn núi, một ḍng sông với chữ viết đậm, mực tím, nắn nót: Em gửi chị Vinh của em” (Vĩ Thanh, tr.163).
    Em gửi chị Vinh của em. Yêu mà vẫn Em Chị, phân biệt ngôi thứ chứ không ḥa đồng th́ chỉ có thể là một t́nh yêu kiểu Oedipe. Bởi vậy, như trên đă nói, Lá Diêu Bông là ước mơ t́nh dục bất hợp pháp đă chi phối suốt cả cuộc đời Hoàng Cầm. “Trong viên ngọc kết tinh của muôn vàn nỗi niềm, cảnh sắc, hương vị, âm thanh, tiết tấu của cuộc sống vừa xa xưa, vừa đương đại, lúc huyền ảo, lúc hiện thực, như mê mà tỉnh, như ngủ mà thức, hư hư thực thực ấy, th́ h́nh ảnh mẹ tôi bàng bạc bao phủ cả tập thơ, rồi đến cậu bé con cầm chiếc Lá Diêu Bông trong tay đi xuyên thời gian”. Có thể nói Lá Diêu Bông là chiếc lá định mệnh của Hoàng Cầm, và chính nhà thơ cũng tự nhận như vậy. Hoàng Cầm, bút danh của nhà thơ, là tên một vị thuốc đắng, dường như để bổ sung điều đó. Người ta có thể “đọc” ở bài Lá Diêu Bông những ư nghĩa khác nhau. Có người cho đó là chiếc lá ảo tưởng, một thứ “quả lừa” mà nhà thơ nhận được (Thanh Thảo, Bài phổ nhạc của Phạm Duy); có người cho đó là nói về t́nh yêu (Bài phổ nhạc của Trần Tiến); có người cho đó là nói về dân gian, dân tộc (Bài phổ nhạc của Lê Yên) . Có thể, tất cả những ư nghĩa ấy đều đúng, nhưng chúng chỉ là ư nghĩa phái sinh hay đúng hơn hệ quả của mặc cảm Oedipe.
    Hoàng Cầm đă sáng tác để giải tỏa mặc cảm Oedipe, hay nói khác đi, mối phức tâm ấy đă “mượn” tài năng thơ Hoàng Cầm để giải tỏa, để thăng hoa ra ngoài. Bởi vậy, Hoàng Cầm thường hay nói về việc ông sáng tác một số bài thơ, những bài hay nhất của ḿnh, là do một người nữ vô h́nh nào đó đọc cho chép. Có khi một câu, có khi một đoạn, thậm chí có khi trọn vẹn cả bài. Việc sáng tác bài thơ Lá Diêu Bông là một trường hợp tiêu biểu: “Chẳng có chuyện ǵ phải lo nghĩ, chẳng có ư định ǵ trong đầu mà sao về quá nửa đêm một mùa rét ấy, tôi vẫn không ngủ được ( .). Im lặng. Chợt bên tai văng vẳng lên một giọng nữ rất nhỏ nhẹ mà rành rọt, đọc chậm răi, có tiết điệu, nghe như từ thời nào xa xưa vẳng đến, có lẽ từ tiền kiếp vọng về:
    Váy Đ́nh Bảng buông chùng cửa vơng .
    Tôi xoay người trong chăn về phía bên trái và ghi ngay. Giọng vẫn đọc, không vội vàng mà cũng không quá chậm, và tôi ghi lia lịa trong bóng tối mờ. Đến lúc giọng nữ im hẳn, ḷng tôi nhẹ bỗng đi, một lát sau tôi ngủ thiếp. Sớm hôm sau nh́n lại th́ có chỗ rơ, đọc được, nhiều chỗ ḍng nọ đè lên ḍng kia, chữ này xóa mất chữ khác. Phải mất gần tiếng đồng hồ, tôi mới tách ra được theo đúng thứ tự như lời người nữ ḱ diệu đó đă đọc cho tôi viết nửa đêm hôm qua” (Vĩ Thanh, tr. 160 -161).
    Có người cho Hoàng Cầm bịa, bởi ông muốn phủi trách nhiệm về sự táo bạo, sự vi phạm cấm kị của bài thơ. Nhưng nhiều người đă sáng tác như vậy, không chỉ Hoàng Cầm. Và, có lẽ, nhất là Hoàng Cầm. Sáng tạo là một giấc mơ. Giấc mơ là h́nh thức sơ đẳng nhất của sự tự phân tích của người mơ. Về Kinh Bắc là một giấc mơ. Tác phẩm - mơ tái lập sự cảm thông giữa cái tôi và cái phi tôi, giữa nguyên lí khoái lạc và nguyên lí thực tiễn, bằng cách tạo ra cái thực thể ngôn ngữ. Nó hiện thực hóa sự phối hợp của hiện thực và cái thầm kín nhất của chính chủ thể. Bởi vậy, giấc mơ và sự sáng tạo nghệ thuật có khả năng giải tỏa và thăng hoa những dồn nén. Nhưng giấc mơ, cũng như tác phẩm văn học, bao giờ cũng là những h́nh ảnh hóa trang. Về Kinh Bắc là một vũ hội hóa trang của các h́nh ảnh, màu sắc, âm thanh, nhịp điệu, tưởng như hỗn độn, nhưng thực ra được gắn kết với nhau bởi một ẩn ngữ - mặc cảm Oedipe - và được viết ra bằng bút pháp của sự ham muốn (écriture du désir).
    Mặc cảm Oedipe chi phối toàn bộ tập thơ Về Kinh Bắc nói riêng và cả đời thơ Hoàng Cầm nói chung. Trước hết, người ta có thể thấy ảnh hưởng của nó tới cấu trúc tác phẩm. Kết cấuVề Bắc Kinh gồm có 8 nhịp th́ nhịp một Khấn nguyện tách hẳn với 7 nhịp kia. Nhịp một gồm 5 bài thơ đêm đặt tên theo ngũ hành Thổ, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa. Một vũ trụ thu nhỏ. Trong cḥm sao năm này, Đêm Thủy là bài thơ tiêu biểu:
    Chùa Phật tích ruỗi trong màn lụa bạch
    Tượng Quan Âm má ửng bồ quân
    Chuông chiều cởi yếm
    Chuông sớm đội khăn
    Câu kinh tê tê mười ngón tay măng
    Mơ đêm hè cuốc lội
    Ao mưa dằng dịt lá trường sinh
    Gió vào trăm cửa
    Gió ra hồng da trinh nữ
    Gió vào xanh quan lục
    Gió ra vàng thớ mít
    Ong bay vai áo tiểu thon ḿnh
    Thập điện diêm vương mở hội
    Trong mắt trẻ lên năm
    Trưa hè găy rắc cành hoa dại
    Mái hậu cung bồ các tha rơm
    Liếu điếu vỗ hoa xoan lả tả
    Nâu sồng nén nghẹn búp thanh xuân
    Tờ kinh đắp mặt ru bươm bướm
    Chuối chín cây đổ gục đứt dây b́m.
    Đêm là ẩn ức; thủy là nước, một chất hoạt động thuận theo tự nhiên. Đêm thủy là dục vọng tự nhiên trong sự đè nén (Nâu sồng nén nghẹn búp thanh xuân), là ẩn ức và giải tỏa ẩn ức. Bởi vậy Khấn nguyện là ch́a khóa mở vào thi phẩm của Hoàng Cầm, vào 7 nhịp thơ c̣n lại. Trong bảy nhịp này th́ nhịp năm C̣n Em là trung tâm, như trên đă nói, hoặc như chính Hoàng Cầm nói (trong Vĩ Thanh) là thời điểm ông xuất hiện trên cơi đời này. Trước ông và đè nặng lên ông là cả một truyền thống chính thức, truyền thống của người cha: nhịp hai Kiếp trước là truyền thống của dân tộc (Thánh Gióng, Mỵ Châu Trọng Thủy, Trai cầu vồng Yên Thế .), nhịp ba Rũ Bụi Gia Phả là truyền thống của gia đ́nh, ḍng họ (Đèn nhang, Ngựa, Hội vật), nhịp bốn Rồi tất cả cùng đi, những truyền thống đó tuy đă lui vào quá khứ, vào sử sách, nhưng vẫn luôn luôn hiện về ám ảnh con người, nhất là với những đứa trẻ. Từ nửa nhịp năm trở đi, chính xác hơn là bài thơ 27, là truyền thống phi chính thức, truyền thống người mẹ, những người đàn bà với số phận cực nhọc của họ, thân phận bị đè nén của họ; nhịp sáu Điểm Trang là những hội hè Kinh Bắc, là sự giải tỏa; nhịp bảy Rồi lại đi, những hồi ức suy tư về số phận của người đàn bà; nhịp cuối Về với ta là sự đi t́m chân tính (Ta) của thi sĩ: Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh. Kết cấu của Về Kinh Bắc tuy phức tạp, và có vẻ hỗn độn của một giấc mơ, nhưng nh́n sâu vào người ta sẽ thấy đó chính là cấu trúc tam giác Oedipe: cha - con - mẹ.
    Trong tam giác này, h́nh ảnh người - mẹ - người - đàn - bà là đậm nhất và đẹp nhất: Những cô hàng xóm răng đen, Cười như mùa thu tỏa nắng. Hoàng Cầm nhiều kỉ niệm về mẹ (Hơi mẹ ơ hờ chỏm tóc tơ, Đêm được nằm mẹ gối đầu tay; - Đêm khoanh tṛn ngủ tay bưng đầu, Ngón cụt thói quen rờ ngực yếm .). Nhưng t́nh cảm thường trực trong ông là nỗi sợ bị mất mẹ, người mẹ bỏ con đi lấy chồng khác:
    Chị lỡ xe hồng
    Mẹ đi lấy chồng
    Cỗ cưới chênh vênh khoai luộc
    Mật vàng mọng rách vỏ nâu non
    (Đợi mùa)
    Và đứa con luôn sống sự mong đợi mẹ về:
    Mùa chưa về
    Tú hú gọi Em đi t́m Mẹ
    Dặng tre xa giấu biệt giải khăn điều
    Khi gậy nắng ăn mày đă quăng sau núi
    Hàng tre nhả yếm
    trả Mẹ về
    lều dột đón mưa đêm
    Th́ Chị đi mấy lối chân chim
    Để Mẹ về bao phương bèo nổi
    Riêng Em nằm trơ đợt giờ tu hú gọi
    (Đợi mùa)
    Nhưng sự đợi chờ là tuyệt vọng. Mùa tu hú đă hết. Bầy chim đă ngủ ở một cánh rừng xa nào đó. H́nh ảnh người Mẹ và người Chị ḥa lẫn vào nhau. Và trong nỗi nhớ, họ càng trở nên đẹp hơn: Miệng hé hạt na nḥa bến vắng, Cổ tay tṛn đẫn mía gie . Nhưng điều đáng nói hơn cả là không phải h́nh ảnh trực diện, mà là những h́nh ảnh hóa trang đă tạo nên những đặc điểm và đặc sắc trong thơ Hoàng Cầm.
    Ẩn ức t́nh dục không được thỏa măn của thời thơ ấu đă phổ vào thơ Hoàng Cầm. Thi nhân làm thơ rất nhiều đề tài, nhưng đề tài nào rồi cũng quay về t́nh yêu, mà t́nh yêu th́ nổi bật ở chất nhục dục. Ông không làm thơ về tính dục như Hồ Xuân Hương, dù ông rất khâm khoái nhà thơ này, nhưng chất tính dục như nằm ngoài chủ định của ng̣i bút cứ hiện lên khi kín đáo, khi lồ lộ trên trang trắng:
    - Ngủ lại giấc mơ dang dở
    Chũm cau căng nứt mạch tằm
    Yếm may ba ngày mẹ vá lại
    Khuyên nghe buồng động bóng đêm rằm
    (Đêm Mộc)
    - Nâu sồng nén nghẹn búp thanh xuân
    (Đêm Thủy)
    - Chợp rạch dáng tiên vén xiêm xơa ngủ
    (Đêm Thổ)
    - Hội Gióng dong chiêng
    Bé em về nằm khoanh ḷng mẹ
    Nghe ngh́n muôn năm sau
    xoa nắn đôi bầu vú lửa
    - Sông dài sóng đôi
    Mượt mà g̣ nổi
    Cánh rừng rưng say
    Hồng hoang hương ấm mấy chân trời
    (Nắng phù sa)
    Màu sắc nhục dục có lẽ là điểm làm thơ Hoàng Cầm khác với thơ t́nh trước Bốn Nhăm. Tầng lớp trí thức đô thị tiền chiến bừng dậy ư thức cá nhân, muốn khẳng định cá tính của ḿnh chủ yếu trong t́nh yêu. Nhưng t́nh yêu thể xác th́ rất dễ giống nhau, họ bèn đi t́m sự khác biệt trong t́nh yêu tâm hồn. Họ say sưa với cái thâm cung nội tâm mà họ vừa mới khám phá. C̣n thơ Hoàng Cầm th́ đâu đâu cũng thấy luẩn quất giấc mơ t́nh dục. Biểu tượng của t́nh dục trong thơ Hoàng Cầm trước hết là cái yếm. Yếm là một thứ y phục dùng để che ngực của người phụ nữ Việt Nam trong xă hội cổ truyền. Ngực là bộ phận sinh dục vừa nhạy cảm vừa lộ liễu nhất của cơ thể người nữ(3). Cái yếm dùng để che ngực, đè vú xuống (khác với xu-chiêng nâng vú cao lên), làm cho người ngoài không để ư đến nó. Nhưng màu sắc rực rỡ của yếm lại hút mắt. Tuy không đặc sắc như cạp váy của phụ nữ Mường, nhưng chiếc yếm của người đàn bà Việt với màu sắc (thâm, nâu, son, điều, thắm .), với h́nh dáng (yếm cổ xây) cũng làm người ta tơ tưởng:
    Gái Tam Sơn đờ đẫn môi trầu
    Ngực yếm phập phồng bưởi ngọt
    (Hội vật)
    - Đêm khoanh tṛn ngủ tay bưng đầu
    Ngón cụt thói quen rờ ngực yếm
    - Mùa chưa về
    Tu hú gọi Em đi t́m Mẹ
    Dặng tre xa giấu biệt giải khăn điều
    Khi gậy nắng ăn mày quăng sau núi
    Hàng tre nhả yếm
    Trả Mẹ về
    lều dột đón mưa đêm
    (Đợi mùa)
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Đi t́m ẩn ngữ thơ Hoàng Cầm (Phần 2)
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]08:17' 24/09/2008 (GMT+7)
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD][​IMG] - Những câu thơ gần như hoàn chỉnh mà Hoàng Cầm nghe được trong đêm, tưởng như không mất công chút nào, sẽ không tự đến nếu không có bao đêm nhà thơ thao thức không ngủ. Có thể, lúc đầu óc ông rỗng không, chẳng nghĩ ngợi ǵ cả là lúc tiềm thức đang ráo riết làm việc.

    [TABLE=width: 200, align: right]
    [TR]
    [TD][​IMG]
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]Nhà thơ Hoàng Cầm (ảnh: Nguyễn Đ́nh Toán)
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    Hoàng Cầm là nhà thơ Việt Nam nói rất nhiều và rất hay về yếm - một biểu tượng ám ảnh của người thơ. Có thể nói, thơ Hoàng Cầm là cả một Hội yếm bay.
    Một đặc điểm khác của thơ t́nh Hoàng Cầm là nói nhiều đến hôn nhân. Với Hoàng Cầm t́nh yêu sóng đôi với hôn nhân. Nói đúng hơn, trong xă hội cổ truyền giấc mơ t́nh dục chỉ có thể thỏa măn được trong hôn nhân và sau hôn nhân. Bởi vậy, thơ Hoàng Cầm nói rất hay về đám cưới, một biểu tượng của hôn nhân. Trước 1945, Đoàn Văn Cừ và Nguyễn Bính viết nhiều về đám cưới. Đám cưới của Đoàn Văn Cừ tưng bừng, rộn ră, đầy âm thanh, mầu sắc, tập tục .
    Các đám cưới trong thơ Nguyễn Bính cũng gắn liền với ước mơ t́nh yêu, với sự thi đỗ (Vơng anh đi trước vơng nàng, Cả hai chiếc vơng cùng sang một đ̣ - Giấc mơ anh lái đ̣), chàng và nàng hóa thân thành đôi bướm cưới nhau . Đám cưới của Nguyễn Bính một là giấc mơ t́nh yêu, gắn với t́nh yêu, đầy chất lăng mạn, chất platonique; hai là đều vui tươi, đầy mầu sắc, thỏa măn, c̣n đám cưới thơ Hoàng Cầm là giấc mơ t́nh dục không được thỏa măn, nên rất buồn. Nhiều khi đó chỉ là giấc mơ con trẻ đóng giả “vợ chồng” gọi là “làm ở”,
    - Chị lỡ xe hồng
    Mẹ đi lấy chồng
    Cỗ cưới chênh vênh khoai luộc
    Mật vàng mọng rách vỏ nâu non
    Cắm bốn que tăm
    Khênh nhị hỉ đẫy lưng lợn béo
    Phần Mẹ khúc đuôi tṛn
    Phần Chị nửa ḿnh thon
    Phần Em hai chân ngơ ngác
    Tăm cắm chật b́nh hương
    Em xít xa tập khấn
    Chắp tay nh́n nghẽn ngh́n phương
    (Đợi mùa)
    - Năm sau giặc giă
    Quan Đốc Đồng áo đen nẹp đỏ
    Thả tịnh vàng cưới Chị
    Vơng mây trôi
    Một chiếc xe đen thăm thẳm phía chân trời
    (Cây tam cúc)
    Về Kinh Bắc dành hẳn một chương về hội hè, không hẳn v́ Kinh Bắc là vùng đất cổ c̣n lưu giữ được nhiều truyền thống văn hóa dân gian, mà hội hè là mặt chủ yếu của đời sống phi chính thức. Chính hội hè đă cân bằng lại đời sống thường ngày. Người đàn bà vất vả, bị hành hạ đă t́m lại được bản thân ḿnh trong các hội thi trổ tài khéo léo:
    - Ới đêm Đông Hồ
    Nát nhầu thân tố nữ
    Sợi bún ngà vá lại dung nhan
    (Thi sợi bún)
    Được giải tỏa ấn ức, cơn sốt ham muốn:
    Băi mía sông Cầu reo đáy bát
    Ngửa mặt hứng mưa đồi cỏ ngát
    Nguôi dần cơn sốt bỏng môi hoa
    (Thi ăn mía thổi cơm)
    Được phá cấm kỵ:
    Hội tàn mau
    Quẩn quanh nghiêng ngửa
    Giật yếm đào túm vội đôi bầu
    (Hội Vân Hà)
    Và phóng túng h́nh hài:
    Luồn tay ôm say
    Giấc bay lay đỉnh núi
    Tuột hàng khuy lơi yếm tóc buông mành
    Đùi chảy búp dài thon nhún vội
    Bàng hoàng tia chớp liệng nghiêng xanh.
    (Thi đánh đu)
    Và cuối cùng là xả láng, tung hê cả áo yếm.
    Ngũ sắc chen nhau cầu lễ hội
    Nuột nà cởi áo hoa khôi
    Em không buộc thắt lưng thon nữa
    Thả búp tṛn . căng . nuột .
    ấy . ơi.
    Nguồn sống tuôn thơm nhựa ứa đầy
    Một chiều e sợ
    mấy chiều say
    Đă phanh yếm mỏng th́ quăng hết
    Những nép xiêm hờ giả bộ ngây
    (Hội yếm bay)
    Hội hè không chỉ là nơi giải tỏa những cấm kỵ với đàn bà, mà cả với đàn ông, nhất là những chú nhóc, cỡ tuổi Hoàng Cầm bấy giờ; chú được phép làm những điều hàng ngày không được phép. Hội hè biến cái không thể thành cái có thể .
    H́nh ảnh người cha trong mối quan hệ với mẹ, với tư cách là một kẻ cạnh tranh, trong thơ Hoàng Cầm, trước hết, ngụ ở quan Đốc Đồng:
    Quan Đốc Đồng áo đen nẹp đỏ
    Thả tịnh vàng cưới chị
    Vơng mây trôi
    (Cây tam cúc)
    Sau đó là h́nh ảnh những người đàn ông trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Từ huyền thoại Thánh Gióng (Kẻ cướp run dưới Rạng - đông - thần - thoại), những người trong ḍng họ đă từng tham gia vào tất cả những sự kiện của lịch sử Việt Nam (đánh Nguyên Mông, đuổi Minh, chống Pháp), đến những người đàn ông dân dă được lựa chọn trong các hội thi anh tài. Đây là truyền thống chính thức của người đàn ông. Điều đặc biệt là khi nói về người đàn ông, thi sĩ luôn luôn so sánh họ với các động vật có sự nhanh nhẹn, có sức mạnh . trước hết đó là biểu tượng ngựa. Là một nước nông nghiệp, nêu biểu vật của Việt Nam trước đây là voi. H́nh ảnh con voi do Bà Trưng, Bà Triệu cưỡi xông vào trận vừa dữ lại vừa hiền. Rồi những truyện cười về voi như Mười voi không được bát nước xáo, Xem voi, bài đồng dao Con vỏi con voi . càng khiến con vật gần gụi với con người. Và h́nh ảnh voi dần dần bị thay thế bằng h́nh ảnh ngựa, một con vật của văn hóa du mục. Ngựa là biểu tượng của sức mạnh, của sự nhanh nhẹn, của những dũng tướng trong trận mạc:
    - Ngựa Ô truy lao cầu vồng Yên Thế
    Râu cằm rừng quanh ánh mắt sao bay
    Ngựa Ô tung phi một đêm đến cửa Bồ Đề
    Bờm nhả khói
    Đuôi dựng mây
    Hí lửa dài
    Vó chồm nghiêng soái phủ
    Nắng nhe cười
    Trai Cầu Vồng Yên Thế đă ra đi
    (Khói Yên Thế)
    Từ con ngựa sắt của Thánh Gióng (Vó ngựa đào ao hồ liên tiếp măi Đông Anh), đến đàn ngựa chiến:
    Đàn lính ngựa vua nuôi
    Bỗng lừ đôi mắt mỏi
    Phi dài vệt khói
    Cánh dăng dăng quan lộ
    áo nẹp vàng lên chín ngọn Hồng Sơn
    (Ngựa 2)
    H́nh tượng Ngựa gắn liền với đ́nh chùa, với tâm thức dân gian Nhong nhong ngựa ông đă về, Cắt cỏ bồ đề cho ngựa ông ăn, và các cô gái cắt cỏ ngựa: Cô gái nhà ai đến đây cắt cỏ / ngửi hơi chồng quanh quất cửa Đông Nam .
    Ngoài ra là h́nh tượng những con thú khác như hổ, voi, cá mập, sư tử, bạch hầu, hồng hạc, thậm chí cả c̣ bợ, ễnh ương, nhái bén . Thật khác hẳn với người đàn bà luôn được Hoàng Cầm ví với thực vật, gắn liền với cây cỏ:
    - Hàng tre nhả yếm
    - Hàng răng nuột nà xít xa dóng mía
    - Vú xuân đường phèn căng bưởi Nga Mi
    - Môi hè thạch nón hé dưa hấu tía
    Cốm sen cuối cành gói lá đài bi
    - Em gánh gạo về dinh phú hộ
    Nứt vai thành sẹo lá lan đao
    Việc ví người đàn ông với các động vật làm cho người ta nghĩ đến thời đại tôtem. Thời kỳ người cổ xưa thờ những con vật đó như là tổ tiên ḿnh. Ví như người Việt cổ thờ con trâu Min làm thủy tổ. Bởi vậy, họ tự đồng nhất ḿnh với trâu min. Chữ min (tiếng Việt cổ) là chỉ sự tự minh định đó, như chữ tôi ngày nay (Kiều: Sao đă cướp sống chồng min đi rồi!). Rồi những tộc khác (cũng thuộc người Việt cổ) coi ḿnh là con cháu của chim Âu, chim Lạc, Rồng . Tục thờ tôtem, theo S.Freud, bắt đầu khi con người bước vào xă hội loài người. Trước đó, loài người sống thành bầy (như bầy động vật) đứng đầu là một con đực hùng mạnh. “Người cha nguyên thủy” này độc quyền hoạt động tính dục với tất cả phụ nữ trong bầy. Những thanh niên trai trẻ hoặc phải sống trong sự nín nhịn, hoặc phải rời khỏi đàn để t́m phụ nữ ở nơi khác. Rồi một ngày kia tất cả con trai trong bầy đứng lên làm loạn và giết chết người cha. Mất nhân tố cố kết, bầy nguyên thủy tan ră và con người bước vào xă hội thị tộc. Những người con, vừa hối hận, vừa mặc cảm tội lỗi, đă tôn thờ tôtem ḥng lưu lại h́nh ảnh của người cha. Tôtem trở thành một nhân tố cố kết mới của cái xă hội người đầu tiên ấy. Để củng cố thị tộc, người ta đặt ra nhiều cấm kỵ, đặc biệt là tục kiêng giết hại hoặc ăn thịt tôtem.
    Tuy nhiên, trong ngày giỗ tôtem, người ta được phá lệ, được tự do, thậm chí buộc phải vi phạm các cấm kỵ, được ăn thịt tôtem để hưởng năng lượng thiêng từ tổ tiên truyền lại. Một h́nh thức tự đồng nhất ḿnh với tổ tiên. Giỗ tôtem, có lẽ, là h́nh thức hội lễ đầu tiên của nhân loại. Hội, như Freud nói, là sự vi phạm cấm kỵ một cách trang nghiêm. Bản chất xả láng, phi chính thức, ngược với các quy tắc ứng xử đời thường của hội, hẳn xuất phát từ giỗ tôtem.
    Hành động giết cha (người cha nguyên thủy) rồi lại tôn thờ h́nh ảnh cha (tôtem) và đồng nhất ḿnh với cha (ăn thịt tôtem) và lấy mẹ (những người phụ nữ trong bầy trước kia là độc quyền hưởng dụng của cha) của những người con là nguồn gốc sâu xa của mặc cảm oedipe, một di sản tiền sử và phần nào là tiền nhân loại của con người, một giai đoạn h́nh thành trong phát sinh loài và di căn vào phát sinh cá thể. Có hiểu như vậy, ta mới có thể thấy được thái độ lưỡng giá (ambivalence) của Hoàng Cầm với h́nh ảnh người cha. Có thể nói, Hoàng Cầm vừa căm ghét quan Đốc Đồng v́ đă cưới mất Chị, vừa thèm muốn được như ông ta. Với truyền thống chính thức của lịch sử, của ḍng họ, của những người cha khác, nhà thơ, một mặt, cảm thấy được sự đè nặng của nó, muốn chống lại nó, nhưng đồng thời, mặt khác, lại tự hào về nó, muốn được trở thành nó, chí ít cũng được nó đóng dấu công nhận. Từ đây, ta có thể thấy được thái độ của nhà thơ, ứng xử của ông với nhà cầm quyền cũng có tính chất lưỡng trị như thế. Và không chỉ ở Hoàng Cầm. Tâm lí pḥ chính thống, mong muốn được chính thức thừa nhận (một miếng giữa làng hơn một sáng xó bếp, áo gấm về làng .) là một tâm lí thâm căn cố đế và phổ biến của người Việt Nam. Con người vẫn c̣n bị chi phối bởi những “khuôn mẫu ứng xử”, bị đè nén bởi vô thức tập thể nên ư thức cá nhân chưa phát triển cao.
    ***
    Về Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây b́m b́m, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu . làm người đọc nhớ đến ḍng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ . có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được thay đổi của thôn quê trước “cuộc xâm lăng” của đô thị. Nếu thơ của các thi sĩ trên chỉ là những “Bức tranh quê”, những bài “Thôn ca”, những họa phẩm phong tục và lịch sử quư giá, th́ thơ Nguyễn Bính là thương nhớ, âu lo, khắc khoải về sự phôi pha của quê hương. Bởi vậy, khác nhau cơ bản giữa thơ họ một đằng là nghệ thuật tĩnh, mang tính chất không gian, một đằng là nghệ thuật động, mang tính chất thời gian. Sức trẻ của thơ Nguyễn Bính, có lẽ, là thơ về sự thay đổi của cái dường như không thể thay đổi” (Đỗ Lai Thúy, Con mắt thơ, in lần 2, tr. 111). Có sự khác biệt nghệ thuật này giữa Nguyễn Bính và các nhà thơ trên là ở chỗ Nguyễn Bính gắn ḿnh với số phận nhà quê, cảm nhận nó từ bên trong chứ không phải đứng bên ngoài nh́n vào.
    Hoàng Cầm cũng nh́n nông thôn từ bên trong, cũng một tài thơ bẩm sinh như vậy, thế mà thơ ông khác xa thơ Nguyễn Bính. Không hẳn là sự khác nhau của hai thổ ngơi, một đất Kinh Bắc tài hoa thanh lịch, một đất Sơn Nam chiêm khê mùa thối, hoặc khác nhau giữa hai thời đại, một tiền chiến và một hậu chiến. Thơ Hoàng Cầm, nh́n một cách tổng thể, lại trở về với tính chất không gian, nhưng không phải là thứ không gian tĩnh của một bức tranh phong tục - lịch sử, mà không gian của sự vĩnh cửu, nằm ngoài mọi thời gian lịch sử. Hoàng Cầm không tả thực một vùng quê Kinh Bắc trong thực tế, mà thể hiện một Kinh Bắc bất tử trong tâm tưởng ông (và có thể cũng sẽ bất tử trong thơ ông).
    Cũng c̣n có thể chỉ ra, những khác nhau nữa giữa hai thi tài: Nguyễn Bính dân dă hơn, chân quê hơn, Hoàng Cầm bác học hơn, hiện đại hơn. Thực ra, Nguyễn Bính c̣n bận tâm đến nông thôn và thành thị, như là hai mảng sống đối lập, sống ở đây mà vẫn nhớ ở kia, sống hôm nay mà vẫn nhớ ngày xưa, c̣n với Hoàng Cầm th́ cuộc sống ở thành phố đă trở nên thoải mái, không mặc cảm . Cùng viết về thôn quê, nhưng những vấn đề của Nguyễn Bính, những băn khoăn của Nguyễn Bính, đă không c̣n là vấn đề của Hoàng Cầm nữa. Hoàng Cầm quan tâm đến con người phổ quát, những thắc mắc của nó với chính nó, như mặc cảm Oedipe chẳng hạn, để tự vượt lên. Bởi vậy, những cảnh quan nông thôn trong Về Kinh Bắc chỉ là tâm cảnh của thi nhân. Và tâm cảnh này, đến lượt nó, cũng chỉ là những h́nh ảnh hóa trang, hoặc những thăng hoa của xung năng vô thức.
    So sánh Hoàng Cầm với Nguyễn Bính tức là đă phần nào so sánh thơ ông với Thơ Mới. Nói phần nào, bởi lẽ thơ Nguyễn Bính là thuần Lăng Mạn, c̣n Thơ Mới th́ không chỉ có lăng mạn như trước đây người ta nhầm tưởng. Thơ Mới cũng như tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn, trong sự tồn tại ngắn ngủi của nó, không dẫm chân tại chỗ mà luôn bước rảo về phía trước, phía đồng thời và hiện đại. Sau Thế Lữ, Nguyễn Bính, đến Xuân Diệu, Huy Cận, Thơ Mới đă chớm sang Tượng Trưng, và Đinh Hùng, Bích Khê đă là Tượng Trưng, c̣n Hàn Mặc Tử th́ đă bước một chân vào ngôi đền Siêu Thực. Hoàng Cầm là người kế tục Thơ Mới không phải như một sự ngân dài, mà như là sự phát triển, sau một đứt đoạn. Chỗ đứt đoạn một cách tuyệt vời, ấy làBên kia sông Đuống. C̣n Về Kinh Bắc lại nối mạch vào Thơ Mới và đi xa hơn về phía hiện đại. Đó là thơ Siêu thực.
    Siêu thực không phải là không thực, mà là một thực khác thực hơn. Trước đây, người ta cứ tưởng rằng chỉ có một thực tại duy nhất là cái thực tại biểu kiến. Nhưng rồi đầu thế kỷ XX, với việc phát hiện ra cái vô thức, cái siêu thức, người ta mới ngớ rằng c̣n có một thực tại khác, như lục địa Atlantide, bấy lâu vẫn ch́m khuất dưới những lớp sóng biển hữu thức. Mà h́nh như cái thực tại ấy mới là quyết định. Chủ nghĩa siêu thực do nhà thơ Pháp André Breton (1896 – 1966) sáng lập với những ngôi sao châu tuần quanh ông như Eluard, Aragon, Péret . là nhằm thể hiện cái thực tại rất thực này. Đó là thơ của tiềm thức, của giấc mơ, của mê sảng, của cái viết tự động . Tôi không biết Hoàng Cầm có tiếp xúc với trường thơ siêu thực Pháp hay không, chỉ biết rằng Hoàng Cầm, như các nhà thơ lớn khác, không thích thơ ḿnh bị đóng gói vào một cái bao lí luận nào, nhưng người phê b́nh, v́ quyền lợi của bạn đọc (và cả quyền lợi của chính nhà thơ), vẫn cứ phải phân loại mà không thể chiều theo cái ư muốn, đôi khi rất đỏng đảnh, của thi nhân. Có thể Hoàng Cầm không có lí luận, không có tuyên ngôn như nhóm siêu thực của Breton, nhưng trên thực tế ông đă sáng tác như họ.
    Như trên tôi đă chứng minh, Về Kinh Bắc là một giấc mơ. Giấc mơ với những liên tưởng đứt đoạn, những h́nh ảnh rời rạc và rất nhiều các khoảng trắng, các dấu lặng . Tất cả trôi đi trong một nhịp điệu thôi miên. Giấc mơ Về Kinh Bắc này là sự siêu thăng của mặc cảm Oedipe, một thực tại siêu thực trong vô thức của Hoàng Cầm. Hoặc v́ cái siêu thực ấy, trong mắt nh́n của hữu thức, là quá dung tục, hoặc v́ nó quá tế vi, nên đa số những h́nh ảnh của giấc mơ không phải là những kí hiệu b́nh thường, đơn nghĩa, hoặc những h́nh ảnh so sánh, mà đều là những h́nh ảnh tượng trưng, hay ẩn dụ, thậm chí huyền thoại.
    Thơ Hoàng Cầm là thơ ẩn dụ. Hệ thống ẩn dụ của ông một phần lấy nguyên từ cái “kho trời chung” của văn hóa dân gian, phần khác lấy có cải biến, c̣n lại là do cá nhân ông sáng tạo. Thơ Hoàng Cầm tràn ngập ẩn dụ đêm, mưa, trăng và gió.
    Đêm phủ đầy một bóng sáng xuống thi phẩm. Người ta bắt gặp: chén rượu đêm tàn, đuổi đêm đông, đêm nguyệt tận, đêm hồ tinh, đêm đồng lơa . rồi Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử Đáng chú ư là mở đầu tập là năm đêm lấy theo ngũ hành: Đêm Thổ, Đêm Kim, Đêm Mộc, Đêm Thủy, Đêm Hỏa. Đây là năm yếu tố, năm quan hệ cơ bản tạo nên vũ trụ. Đêm là vũ trụ thời tiền vũ trụ, hoặc vũ trụ thời khởi thủy. Từ đó, đêm đồng nghĩa với vô thức. Đêm là bà dỡ, đồng lơa của sáng tạo, của giấc mơ . Và giấc mơ của Hoàng Cầm cũng đẫm nước mưa. Mưa là một phiếm thể, dễ thay h́nh đổi dạng (mưa ngâu, mưa xuân, đi lối mưa, thềm hong mưa, lun phun mưa, mưa hoa nhài, mưa nằm, mưa ngồi, ao mưa nḥe nắng, mắt nh́n như mưa trắng .). Mưa là biểu tượng của tinh dịch Trời ban xuống cho Đất. Mưa trong thơ Hoàng Cầm, bởi vậy, mang mầu mầu sắc tính dục đậm:
    - Là mưa ái phi
    tơ tằm óng chuốt
    Ngón tay trắng nuốt
    nâng bồng Thiên Thai
    - Hạt mưa chưa đậu
    Vai trần Ỷ Lan
    - Nhớ lụa mưa lùa
    Sồi non yếm tơ
    (Mưa Thuận Thành)
    Hơn nữa, bản thân Về Kinh Bắc cũng là một ẩn dụ. Kinh Bắc là miền thơ ấu của Hoàng Cầm. Là một trong những cái nôi của văn minh sông Hồng, của văn hóa Việt Nam. Bởi vậy, Về Kinh Bắc cũng có nghĩa là quay về thời thơ ấu, quay về với cội nguồn. Sự trở về này làm người ta nhớ đến những huyền thoại về cuộc trở về vĩnh cửu (retour éternel) của nhân loại. Đây là một hằng số tâm lí và văn hóa. Nhân loại càng đi xa cội nguồn của ḿnh bao nhiêu th́ càng năng trở về với nguồn cội bấy nhiêu. Đến đây, tôi bỗng nhớ đến một phát hiện quan trọng của Devereux, nhà nhân học văn hóa Pháp đương đại. Ông bắc được một chiếc cầu nối liền cái tâm lí và cái văn hóa nhờ một định nghĩa nổi tiếng: văn hóa là tâm lư được phóng chiếu ra ngoài, tâm lí là văn hóa được phóng chiếu vào trong. Với Về Kinh Bắc của Hoàng Cầm, tôi thấy cái tâm lí và cái văn hóa là một, cả với tư cách là một ẩn dụ phổ quát, lẫn tư cách một tác phẩm thơ.
    Hoàng Cầm, ở những kiệt tác, cũng có một lối viết gần với écriture automatique của trường phái thơ siêu thực. Nhà thơ ch́m vào tiềm thức để cho ng̣i bút tuôn chảy. Lối viết tự động này, thực ra, cũng không lạ. Đă có những cầu cơ giáng bút. Có sự sáng tác theo mách bảo của thần linh. Có lối vẽ của các họa sĩ đời Tống, muốn vẽ một cây trúc th́ hăy quan sát nó đến mức nhập thân rồi hóa thân vào câu trúc, đến khi vẽ, cây trúc tự hiện lên mặt giấy qua ngọn bút lông. Người họa sĩ chỉ là một vật trung chuyển. Sáng tác theo lối viết tự động khiến người ta dễ hiểu lầm về vai tṛ của nghệ sĩ.
    Thực ra, cả hai kiểu sáng tác, tùy thuộc vào tạng người, tạng văn hóa của nhà thơ: một như Hoàng Cầm, một như Lê Đạt. Khác với Hoàng Cầm, Lê Đạt t́nh nguyện làm một “phu chữ”. Ông nâng lên đặt xuống, ngắm nghía từng con chữ với con mắt nghề nghiệp. Ông chúa ghét thói tài tử, đặc biệt là tài tử trong thơ. Nhưng, có lẽ, sự khác nhau của hai thi sĩ, hai lối viết, không phải ở chỗ một người th́ lao động cật lực, thậm chí “trâu ḅ” nữa, con người kia th́ không, mà ở chỗ một đằng th́ các thao tác sáng tạo diễn ra ở mặt tiền hữu thức, ai cũng có thể nhận ra được, c̣n đằng kia th́ ở hậu trường tiềm thức. Những câu thơ gần như hoàn chỉnh mà Hoàng Cầm nghe được trong đêm, tưởng như không mất công chút nào, sẽ không tự đến nếu không có bao đêm nhà thơ thao thức không ngủ. Có thể, lúc đầu óc ông rỗng không, chẳng nghĩ ngợi ǵ cả là lúc tiềm thức đang ráo riết làm việc. Hơn nữa, các phương tiện của hữu thức th́ hữu hạn, c̣n các phương tiện của tiềm thức th́ lại vô cùng. Nhưng điều quan trọng là hệ tiềm thức có khả năng chọn ra một phương án tối ưu trong hàng ngh́n phương án dự liệu, mà thao tác chọn lựa này chỉ diễn ra trong khoảng một phần trăm của giây. Sáng tác kiểu Hoàng Cầm xem ra có vẻ nhàn nhă, bất ngờ và ít trùng lặp là v́ vậy.
    Tóm lại, Về Kinh Bắc hội đủ các yếu tố của một thi phẩm thi siêu thực: giấc mơ, ẩn dụ, huyền thoại, viết tự động ., nhưng vẫn chưa phải là một tác phẩm đúng nghĩa của chủ nghĩa siêu thực như ở phương Tây. Nói vậy, không có nghĩa là tôi đ̣i hỏi các nhà thơ Việt Nam phải bắt chước phương Tây, mà qua đó chỉ muốn ghi nhận rằng, chúng ta có thể là những kiến trúc sư tài giỏi, nhưng thi công th́ bao giờ cũng kém ở khâu hoàn thiện. Chúng ta bao giờ cũng đủ đầy các yếu tố, nhưng chưa khi nào nâng lên được thành trường phái. Sự dừng lại của Hoàng Cầm trước ranh giới cuối cùng này chứng tỏ nhà thơ đất Kinh Bắc chủ yếu vẫn sáng tác theo lối tự phát chứ chưa phải tự giác. Sự tự giác thường biểu hiện ở nhận thức lí luận. Hoàng Cầm vẫn hay nói ông sáng tác theo sự mách bảo của cảm hứng, chứ không theo một thứ lí luận nào cả. Không ai bắt nhà thơ phải có tuyên ngôn, phải viết những bài lí luận, nhưng nhà thơ cần phải tự giác được thế mạnh sáng tạo của ḿnh, nhất là ư thức được xu thế của thời đại ḿnh, để đẩy tác phẩm ḿnh vượt qua giới hạn mà cái thiên nhiên trong con người ḿnh quy định. Sự dừng chân ở bước chót này khiến thơ Hoàng Cầm chưa có sự đổi mới về ngôn ngữ, chưa có một ngôn ngữ thơ hiện đại như trường phái siêu thực. Bằng ngôn ngữ thơ của ḿnh, các nhà siêu thực phương Tây thể hiện một cái nh́n đời mới, khác hẳn khuôn sáo cũ. Họ không đặt những con chữ có nghĩa gần gụi nhau, mà làm gần gụi nhau những con chữ có nghĩa hoàn toàn xa lạ. Chính sự chắp nối hai thực thể vô cùng xa nhau này đă, như một sự đoản mạch, làm bùng lên tia lửa khác lạ, h́nh ảnh khác lạ. Việc biến cái không thể thành cái có thể này đă làm ngôn ngữ thơ siêu thực trở nên phi lí, khó hiểu, khó nhớ, khó thuộc và bị lí trí thông thường phản đối. Hồn thơ Hoàng Cầm ở Về Kinh Bắcđă khác xa với hồn Thơ Mới, nhưng ngôn ngữ thơ ông vẫn chưa hẳn đă thoát xác Thơ Mới. Chính điều này làm cho nhiều người ngộ nhận thơ ông chỉ là sự kéo dài của Thơ Mới. Và cũng chính ở điều này, người ta thấy Hoàng Cầm khác với Trần Dần, Đặng Đ́nh Hưng, Lê Đạt . Chỗ mà ông dừng lại th́ chính là chỗ mà họ bứt lên phía trước, để ḥa nhập vào ḍng chảy của thơ thế giới.
    ***
    Khi hành tŕnh Đi t́m ẩn ngữ thơ Hoàng Cầm kết thúc, người đầu tiên tôi muốn đưa đọc chính là Hoàng Cầm. Tôi cần biết phản ứng của Hoàng Cầm với hai tư cách: 1. Tác giả tập Về Kinh Bắc, 2. Người được tâm phân, dù là gián tiếp qua một sáng tác thi ca. Hai vai tṛ này, ở ông, có khi tách biệt, có khi nhập làm một. Nhưng, thú thật, tôi rất ngại: các nhà thơ vốn dễ tổn thương, mà phản ứng của họ th́ lại rất cực đoan. Hơn nữa, đây lại là vấn đề tế nhị, hoặc phạm thượng trong cái nh́n Nho giáo. Hôm tôi đến 43 Lư Quốc Sư, mừng là gặp ở đấy cả nhà thơ Lê Đạt, Đặng Đ́nh Lưu và một họa sĩ sống cặp đôi với Hoàng Cầm như một thứ “tùy nữ”. Tôi dúi vội bản thảo cho Hoàng Cầm rồi lúng búng mấy lời cáo lui. Chủ nhà hẹn tôi độ một tuần sau trở lại. C̣n tôi th́ cứ nấn ná măi .
    Bẵng một thời gian, tôi gặp lại Hoàng Cầm ở nhà Đặng Đ́nh Lưu nhân dịp bạn bè đến mừng ông cho in tập thơ Trăng đánh phấn lại. Trước mặt Lê Đạt, Dương Tường, vợ chồng Quang Thân - Dạ Ngân ., Hoàng Cầm tỏ lời cảm ơn tôi. Ông cho rằng tôi đă bóc ra đúng cái con người thầm kín ở trong ông. Những ǵ mà ông cảm nhận một cách mơ hồ và vô thức th́ tôi đă nói “toạc ra” bằng một thứ ngôn ngữ khoa học tường minh mà vẫn không bị trơ (trơ cạn cho tác phẩm và trơ trẽn cho kẻ phát ngôn). “Phát hiện” của tôi c̣n tạo ra một cấu trúc vững chắc khiến cho thơ ông chẳng những thoát khỏi t́nh trạng tản mạn, mà c̣n cố kết thành một chỉnh thể, một thế giới .
    Tôi buộc phải thêm những lời Vĩ Thanh này để trấn an cho tôi, một nhà phân tâm học bất đắc dĩ. Và nhân tiện, cho độc giả, v́ hướng tiếp cận văn học này c̣n lạ lẫm. Bởi, tôi nghĩ rằng, lời “thú nhận” của Hoàng Cầm là một đảm bảo vàng.

    Đỗ Lai Thúy
    Chú thích:
    1. Trong Vĩ Thanh của Về Kinh Bắc Hoàng Cầm hồi tưởng “Đúng là năm Kỉ Hợi 1959, từ khi chiếc lá bàng trước cửa rụng xuống báo tin thu ., hồn tôi cứ ch́m dần, ch́m sâu và lắng thật sâu vào vùng quê tôi ngày xưa, thời tôi c̣n nhỏ dại, với biết bao bóng dáng, đường nét màu sắc, hương vị đă quá xa, đă không c̣n nữa. Ngày tháng qua, bao người đă qua, đă “đi đâu,về đâu” tôi không thể biết, nhưng cả một thời từ khi vào tuổi nhận biết được cơi đời này đến khi rời quê ra Hà Nội học tiếp rồi vào hẳn thế giới thơ văn(1938), nghĩa là cái khoảng thời gian 12 năm thời trẻ ấy của tôi th́ sống lại, và ngày đêm th́ thầm nói chuyện với tôi về quê hương, về t́nh yêu, về những nỗi buồn, niềm cô đơn, nỗi xa cách, nỗi biệt ly cứ tầng tầng lớp lớp úp xuống hồn tôi như một đại dương chập trùng sóng gió, miên man một màu huyền - diệu -dĩ - văng rồi xẻ ngang, vạch chéo, vút cao, xoáy sâu không biết bao nhiêu những nét rung động, có khi vơ vàng, gầy mảnh, có khi tươi tắn, ngỡ ngàng, lúc như ai oán, lúc như mơ mộng nhưng vui ít, buồn nhiều, cái đau của những thuyền t́nh không đến bến, những nguyện ước không thành, những mộng đẹp tan vỡ, những men say nửa chừng, những con mắt mĩ nhân đă khép, những tiếng hát người yêu đă tắt, những làn da mịn màng .Tất cả .Tất cả .tôi bơi, ch́m trong tất cả da thịt quê hương, hồn phách quê hương” (Vĩ Thanh, tr. 148-149).
    2. Theo huyền thoại Hy Lạp, Oedipe là con vua thành Thèbes. Được thần linh báo hiệu, vua biết lấcu này Oedipe lớn lên sẽ giết bố, nên nhà vua đem con bỏ ở sau sa mạc. Oedipe được nhà vua xứ Corintha đem về nuôi. Lớn lên, Oedipe phân vân về bố mẹ thật của ḿnh, nhất là sau khi được thần linh báo là anh sẽ giết bố và lấy mẹ làm vợ, liền bỏ nhà ra đi. Đến gần thành Thèbes, gặp một ông già cản đường, Oedipe giận giết lăo. Sau đó gặp con quái tinh Sphinx, Oedipe giải đúng bài đố do nó đưa ra và giết luôn con quái, giải thoát cho dân chúng cả vùng ấy. Dân bèn đưa Oedipe lên làm vua thành Thèbes, và lấy Hoàng hậu góa. Oedipơe vẫn chưa hết phân vân, về sau một người đày tớ già cho biết chính ông lăo mà Oedipe giết chính là bố và Hoàng hậu là mẹ. Lời báo của thần linh đă thành sự thực. Để trừng phạt ḿnh, Oedipe tự móc mắt, đuổi hai đứa con, rồi lại bỏ đi, về sau biến thành nửa người nửa thần. S.Freud thấy ở huyền thoại này chứa đựng nhiều yếu tố phù hợp với sự phân tích tâm lư của ông, nên gọi là mặc cảm Oedipe. Cách lấy những nhân vật huyền thoại đặt tên cho các mặc cảm hoặc các nét tâm lư đặc biệt, c̣n được dùng nhiều như complex d’Orphée, Narcissisme.
    Dựa vào những quan sát tâm lư trẻ em, quan sát lâm sàng ở những người bị bệnh nhiễu tâm, tâm lư sáng tạo ở các nghệ sĩ, nhà phân tâm học S.Freud đă đi đến một kết luận, đứa con trai nào đến 2-3 tuổi cũng đều muốn tranh giành lấy mẹ và trở thành đối thủ của bố, và trong vô thức có ư muốn giết bố cho nên sinh ra mặc cảm Oedipe, và ngược lại ông bố nào cũng ghen tỵ với con trai, và trong vô thức muốn đuổi con trai ra khỏi nhà. V́ vậy, tâm tư vô thức của con người không ổn định, cho đến lúc t́m ra được cái chân tính của ḿnh là một con người có giới tính rơ ràng, biết yêu một người khác giới ở ngoài gia đ́nh, không phải bố mẹ, lúc ấy mặc cảm Oedipe được giải tỏa. Thường th́ trẻ em đến 7-8 tuổi đă bước đầu được giải tỏa, và quá tŕnh này, ở con người b́nh thường cũng kết thúc ở người chớm thành niên. Mặc cảm này không có tính bệnh hoạn, mà là quá tŕnh b́nh thường, thậm chí đóng vai tṛ quan trọng trong việc phát triển nhân cách. Chỉ khi nào bế tắc không giải tỏa được th́ mới gây ra những hiện tượng bệnh lư.
    3. Theo sự nghiên cứu của các nhà nhân học, ở động vật và ở người dự - thành nhân chưa đứng thẳng hẳn, th́ bộ phận lộ liễu nhất của giống cái là âm vật, c̣n dương vật của đàn ông là kín nhất, nhưng khi con người đứng thẳng , th́ dương vật trở thành lộ, c̣n âm vật, ngược lại, trở thành “chỗ kín”. Chỗ lộ nhất bây giờ của nguời đàn bà là vú. Bởi vậy, trong y phục người ta phải xử lư cái che bộ ngực làm sao cho hợp lư, vừa độ, theo biện chứng của sự khép mở.
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
     
Đang tải...