Chuyên Đề Di chúc Hồ Chí Minh và con đường đổi mới ở Việt Nam hôm nay

Thảo luận trong 'Triết Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    40 năm trước, sau khi đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc và nhân loại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi vào cõi vĩnh hằng với tư cách người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà tư tưởng, nhà văn hoá lớn của thời đại chúng ta. Trước lúc đi xa, Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta bảnDi chúclịch sử, kết tinh trong đó cả tinh hoa tư tưởng, đạo đức và tâm hồn cao đẹp của một vĩ nhân.
    Di chúccủa Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ phản ánh khí phách hào hùng của dân tộc, không chỉ là tình cảm và niềm tin của Người dành cho Đảng, cho dân, mà còn thể hiện đường lối chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam 40 năm qua.Di chúccủa Người đã trở thành lời hiệu triệu thiêng liêng của Tổ quốc thúc giục bao thế hệ người Việt Nam lên đường đánh giặc, cứu nước và xây dựng Tổ quốc Việt Nam giàu, mạnh.[SUP]([/SUP][SUP]*)[/SUP]Có thể nói,Di chúccủa Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết tinh những giá trị cao đẹp nhất của văn hoá phương Tây, văn hóa phương Đông, giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam và chủ nghĩa Mác - Lênin được toả sáng trong thực tiễn cách mạng nước ta. Chiều sâu và tầm cao trí tuệ nhân văn đó của Người không phải tự nhiên mà có. Trước hết, nó được hình thành từ truyền thống quê hương, đất nước và phát triển suốt quá trình khổ công học tập, rèn luyện, tích luỹ trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Để nghiên cứu, học tậpDi chúccủa Người, chúng ta cần phải hiểu bối cảnh mà bảnDi chúcra đời, đồng thời phải hiểu con người Hồ Chí Minh với chữ Người viết hoa, với những nét đặc sắc của một nhà hiền triết phương Đông, kết hợp với tính cách anh hùng giải phóng dân tộc và danh nhân văn hoá thế giới.
    Từ khi còn nhỏ, trong tâm hồn Hồ Chí Minh đã sớm hình thành lý tưởng, tình yêu đất nước, bản chất trung kiên và nghiêm khắc trong sinh hoạt, cứng cỏi và linh hoạt trong giao tiếp. Người lớn lên trong một gia đình nhà Nho thanh bạch và hơn nữa, lại được nuôi dưỡng bởi một dân tộc có truyền thống mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, có nền văn hiến lâu đời và khát vọng vươn tới cuộc sống tốt đẹp, song lại phải sống trong cảnh lầm than. Chính trong hoàn cảnh đó, Người đã sớm nhận ra nỗi nhục của kiếp đời nô lệ, nỗi đau của người dân mất nước và Người đã ra đi tìm đường cứu nước với một ý chí “đuổi thực dân, giải phóng đồng bào”. Bôn ba khắp năm châu bốn biển, làm đủ mọi nghề, học được nhiều điều, và vào năm 1920, bằng tấm lòng yêu nước nhiệt thành, tình thương dân sâu sắc, chí căm thù giặc, cùng với trí tuệ anh minh của mình, Người đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin một con đường mới cho cách mạng Việt Nam. Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(1).
    Khi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã thấu hiểu tư tưởng “Nhân, Nghĩa, Trí, Dũng” của Nho giáo và quan niệm “từ bi, hỉ xả”, “cứu nhân độ thế” của Phật giáo Song, bằng tri thức khoa học và thực tiễn cách mạng mới, Người đã vượt qua những hạn chế của các quan niệm này, hướng tới giá trị nhân văn phổ quát - đó là cái tương quan giữa cá nhân - giai cấp - dân tộc - nhân loại trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng giải phóng con người. Người đã biết đến ước mơ có một xã hội tốt đẹp và chủ trương cứu vớt chúng sinh của Chúa Giêsu, đến những giá trị đích thực của văn hoá phương Tây với những tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, v.v Chính vì vậy, trongTuyên ngôn độc lậpcủa nước ta, Người đã đưa vào đó phần tinh tuý nhất trongTuyên ngôn Độc lập năm 1776của nước Mỹ vàTuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyềncủa Cách mạng Pháp năm 1791 để khẳng định quyền được sống trong bình đẳng, độc lập, tự do của nhân dân ta: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”(2).
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...