Thạc Sĩ Đề tài chiến tranh chống mỹ trong truyện ngắn bảo ninh

Thảo luận trong 'Văn Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Luận văn thạc sĩ
    Đề tài: Đề tài chiến tranh chống Mỹ trong truyện ngắn Bảo Ninh
    Định dạng file word


    MỤC LỤC
    Trang
    MỞ ĐẦU
    1. Lý do chọn đềtài 1
    2. Lịch sửvấn đề 1
    3. Mục đích yêu cầu của việc giải quyết đềtài 5
    4. Giới hạn của việc giải quyết đềtài 5
    5. Phương pháp nghiên cứu 6
    6. Dựkiến đóng góp của luận văn 6
    7. Cấu trúc của luận văn 6
    Chương 1.Chiến tranh và nhân cách con người 7
    1.1. Nhìn qua truyện ngắn về đềtài chiến tranh sau 1975 7
    1.2. Vấn đềchiến tranh và nhân cách con người trong truyện
    ngắn Bảo Ninh 11
    1.3 Sựtác động của chiến tranh đến nhân cách con người
    trong truyện ngắn Bảo Ninh 29
    Chương 2.Chiến tranh và tình yêu 40
    2.1. Những đặc điểm nổi bật của truyện ngắn Bảo Ninh khi
    thểhiện tình yêu thời chiến tranh 41
    2.2. So sánh đềtài chiến tranh và đềtài tình yêu trong truyện
    ngắn và tiểu thuyết Thân phận của tình yêu của cùng tác giả 55
    Chương 3.Hai điểm nhìn chiến tranh 67
    3.1. Chiến tranh được hồi tưởng lại 67
    3.2. Chiến tranh được miêu tảnhư đang diễn ra 75
    3.3. Đối sánh điểm nhìn chiến tranh trong truyện ngắn với
    tiểu thuyết Thân phận của tình yêu của cùng tác giả 81
    KẾT LUẬN 92
    TÀI LIỆU THAM KHẢO 94

    Mở đầu


    1. Lý do chọn đề tài
    1.1 Cuộc chiến tranh chống Mỹ là một trong những đề tài quan trọng nhất của văn học cách mạng Việt Nam. Mỗi thể loại, mỗi nhà văn nhận thức và thể hiện đề tài này theo những cách riêng. Chọn đề tài này chúng tôi muốn nghiên cứu việc nhận thức và thể hiện đề tài ấy ở truyện ngắn của một nhà văn cụ thể.
    1.2 Bảo Ninh là một nhà văn trưởng thành khi chiến tranh chống Mỹ đã kết thúc. Nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu một nhà văn hậu chiến đã nhìn nhận và thể hiện cuộc chiến tranh đó như thế nào.
    1.3 Bảo Ninh còn là tác giả của cuốn tiểu thuyết xuất sắc viết về chiến tranh (Thân phận của tình yêu). Nghiên cứu đề tài này trong sự đối sánh với đề tài chiến tranh ở cuốn tiểu thuyết trên góp phần nhận thức thi pháp của truyện ngắn và tiểu thuyết.
    2. Lịch sử vấn đề
    Bảo Ninh là một trong số những nhà văn viết về đề tài chiến tranh có đóng góp trong cách nhìn về đề tài chiến tranh trong văn học hậu chiến. Đề tài chiến tranh được Bảo Ninh thể hiện trên hai thể loại: truyện ngắn và tiểu thuyết. Nghiên cứu về các sáng tác của Bảo Ninh đang thu hút sự quan tâm của người cầm bút bởi những đặc trưng về thể loại và nội dung phản ánh. Trong Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Bùi Việt Thắng khẳng định Bảo Ninh là một trong những nhà văn có duyên với truyện ngắn [13,337]. Bích Thu trong Những thành tựu của truyện ngắn sau 1975 cũng xem Bảo Ninh là một cây bút ấn tượng với người đọc [51,32]. Đi vào tìm hiểu nghiên cứu thi pháp truyện ngắn Bảo Ninh, tác giả cuốn sách Bình luận truyện ngắn chỉ ra truyện ngắn Khắc dấu mạn thuyền là kiểu tình huống tượng trưng [50,49]. Hay WayneKarlin trong lời giới thiệu cho tuyển tập truyện ngắn Tình yêu sau chiến tranh nhận thấy truyện ngắn Bí ẩn của làn nước của Bảo Ninh: "in dấu niềm khao khát tình yêu" [59,12], "đối diện trực tiếp với hậu quả chiến tranh, những bậc cha mẹ bị mất con" [59,14]. Đó là những gợi ý tuy ít ỏi của các tác giả đi trước song rất có ý nghĩa cho chúng tôi khi nghiên cứu từng truyện ngắn Bảo Ninh để làm rõ những đặc sắc của truyện ngắn Bảo Ninh trong việc thể hiện đề tài chiến tranh chống Mỹ.
    Bảo Ninh là tác giả của cuốn tiểu thuyết rất thành công về đề tài chiến tranh chống Mỹ: Thân phận của tình yêu, tác phẩm đạt giải nhất của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1991. Nghiên cứu về đề tài chiến tranh trong tác phẩm này đã trở thành mối quan tâm của các nhà văn, nhà nghiên cứu và người đọc.Tác giả Đỗ Đức Hiểu trong Thi pháp hiện đại đã khẳng định: "Trong văn học mấy chục năm nay, có thể Thân phận của tình yêu là quyển tiểu thuyết hay về tình yêu, quyển tiểu thuyết về tình yêu xót thương nhất", tác giả nhấn mạnh: "nỗi buồn chiến tranh thể hiện một điểm nhìn mới về cuộc chiến tranh kéo dài 35 năm", "những cảnh tả chiến tranh, những định nghĩa về chiến tranh la liệt trong tác phẩm" [18,265]. Bên cạnh nỗi buồn chiến tranh được phản ánh trong tác phẩm là nỗi buồn về tình yêu, Đỗ Đức Hiểu nhận định: "Nỗi buồn chiến tranh và nỗi buồn tình yêu (tr,98) thấm vào nhau. Kiên vẫn phải sống, sống một thời hậu chiến u buồn (nỗi buồn hậu chiến) vì một "thiên mệnh mù mịt xa vời, tối tăm và đau xót, được diễn đạt bằng đêm ("bóng đêm", "đêm hè", "đêm trường" ., [18,266], "Tình yêu, chiến tranh, viết tiểu thuyết, ba nhịp đó xen kẽ, đan chéo, gây chóng mặt, bàng hoàng, nhức nhối. Mưa và đêm, chiến tranh và sáng tác; khủng khiếp và hồn hoang. Len lỏi, bao trùm và dẫn dắt tất cả các biến động của tiểu thuyết (mưa và đêm) là một mối tình đau xót, kéo dài, vang vọng, âm ỉ và nổ bùng, hủy hoại tất cả" [18,266]. Những nghiên cứu này của tác giả đã giúp chúng tôi trong việc khảo sát so sánh tiểu thuyết Thân phận của tình yêu và truyện ngắn Bảo Ninh.
    Nghiên cứu về Thân phận của tình yêu ở góc độ thi pháp, tác giả Trần Quốc Huấn trong tạp chí Văn học số 3 (1991) đã quan tâm đến thiên truyện từ điểm nhìn chiến tranh. Tác giả viết: "Toàn bộ tác phẩm là cái nhìn ngoái lại, thờ thẫn, đăm đắm của một người lính khi đã tàn cuộc. Cái nhìn dằng dặc, đầy phân tán nhưng không hề lơ đãng. Điểm nhìn có góc độ rộng, song khá tập trung" [23,85]. Điều này đã gợi ý cho chúng tôi khi nghiên cứu về hai điểm nhìn chiến tranh quá khứ và hiện tại trong tiểu thuyết Thân phận của tình yêu. Bên cạnh đó Trần Quốc Huấn còn đưa ra nhận xét về nhà văn Bảo Ninh. Ông viết: "Bảo Ninh đã độc lập tác chiến trong quá trình rong ruổi ngược. Anh can đảm chấp nhận một lộ trình dốc đứng. Có lẽ anh trong số những người lính sống sót đã mất đi khả năng quên. Đây chính là sự hành xác vừa đau đớn vừa đáng sợ. Buồn đau đến thành mãn tính, ám ảnh, luôn mấp mé với bệnh hoạn" [23,86].
    Nguyễn Thái Hòa trong công trình Những vấn đề thi pháp của truyện lại nhấn mạnh đến cách xử lý thời gian linh hoạt của Bảo Ninh. Theo nhà nghiên cứu, Bảo Ninh đã sử dụng thủ pháp đồng hiện trong cuốn tiểu thuyết này. Nguyễn Thái Hòa viết: "Phong phú và đầy đặn hơn là cách kể, cách xử lí thời gian của Bảo Ninh trong Thân phận của tình yêu. Cả quãng đời thơ ấu, đi học, trước chiến tranh, sau chiến tranh của nhân vật Kiên không phải liên tục, đều đặn mà lần giở theo hồi ức" [21,143], "sự xê dịch trong Thân phận của tình yêu mới thật là một thách thức đối với người đọc. Nó không có dấu hiệu báo trước và cũng chẳng biết kết thúc lúc nào" [21,131].
    Trên tạp chí Văn học số 6 (1991), với bài viết Văn xuôi gần đây và quan niệm về con người Bùi Việt Thắng đã đưa ra nhận định hết sức xác đáng về quan niệm nhân cách con người trong tiểu thuyết Thân phận của tình yêu. Ông viết: "Cái phần được của Thân phận của tình yêu chính là ở chỗ Kiên mới dám nhìn thẳng, nhìn sâu vào quá khứ, mới dám đối diện với hiện tại, rất công bằng mà phán xét lịch sử. Cao hơn nữa là đối diện với chính mình, rồi xám hối, tranh đấu và vượt lên" [49,17]. Đó là những định hướng quý báu cho chúng tôi khi nghiên cứu so sánh tiểu thuyết Thân phận của tình yêu và truyện ngắn Bảo Ninh cùng viết về đề tài chiến tranh chống Mỹ.
    Ngoài tập truyện ngắn và tiểu thuyết Thân phận của tình yêu, gần đây Bảo Ninh còn viết một số bài trên báo Văn nghệ trẻ bàn về sự đổi mới của văn học. Trong phần hai của bài viết Văn học đổi mới đến từ cuộc kháng chiến, Bảo Ninh đã chỉ trích một số quan niệm ấu trĩ khi xử lí Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư và lý giải về việc thưởng thức văn học của độc giả. Đồng thời đã khen ngợi sự đổi mới đề tài chiến tranh của Thái Bá Lợi (truyện ngắn) và Lê Lựu (tiểu thuyết). Tác giả viết: "Tôi nghĩ rằng họ, chẳng hạn nhà văn Thái Bá Lợi của Hai người trở lại trung đoàn, nhà văn Lê Lựu của Thời xa vắng, có ý chí đổi mới sáng suốt và mãnh liệt đồng thời quả cảm và gan lỳ chẳng kém gì người nông dân gan dạ dám chọn con đường đúng đắn nhưng đầy cay đắng và cô đơn của bí thư Kim Ngọc. Tôi tự hỏi rằng nếu không có những người nông dân cựu chiến binh kháng chiến chống Mỹ ấy thì liệu nền kinh tế của đất nước và đời sống của mọi người ngày hôm nay sẽ như thế nào?" [40,3]. Bảo Ninh là một trong những nhà văn góp phần đổi mới văn học viết về đề tài chiến tranh, nên ở đây thể hiện một quan niệm về sự đổi mới cách nhìn nhận chiến tranh. Ông viết: "Nếu không có ý chí và tác phẩm sáng ngời tinh thần đổi mới ngay từ đầu những năm 1980 của các nhà văn mà hầu hết là cựu chiến binh thì ngày nay các nhà văn và cả độc giả nữa sẽ có kiểu tư duy văn học kiểu gì?" [40,3]. Cũng trên báo Văn nghệ trẻ ở bài viết Nói hay làm dở, Bảo Ninh đưa đến một quan niệm mới về việc viết văn của lớp nhà văn sau chiến tranh. Ông dẫn ra một loạt cuộc hội thảo bàn về nhu cầu đổi mới văn học: "Mỗi thầy mỗi khác, nhưng tựu trung đều kêu gọi và thôi thúc chúng tôi hãy khác đi, hãy mau mau đổi mới, hãy mạnh dạn cách tân, hãy từ bỏ lối mòn trong suy nghĩ và trong sáng tác" [41,2].
    Gần đây cũng trên báo Văn nghệ trẻ, số 39 (2006) trong bài viết Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại phong phú về lượng, khi bàn về tiểu thuyết Việt Nam đương đại, tác giả Nguyễn Trường Lịch cho rằng tiểu thuyết Việt Nam không nằm ngoài dòng chảy của tiểu thuyết thế giới, ông đưa ra một số tác phẩm tiêu biểu trong đó là tiểu thuyết Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh. Tác giả viết: "Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh với độ dài của thời gian, điểm nhìn mới mẻ về chiến tranh trong quá khứ giúp nhà văn mạnh dạn nhận rõ cuộc chiến tranh không chỉ mang âm điệu hào hùng thắng lợi mà con đượm nét đau thương bi tráng trong những ngôi nhà, nơi ngõ phố vắng vẻ hoặc làng quê núi đồi quạnh hiu qua từng nỗi bất hạnh cô đơn của bao người con gái nhỏ hậu phương đêm đêm không ánh đèn mỏi mắt chờ đợi" [31,3]. Nguyễn Trường Lịch còn phát hiện những mới mẻ ở cuốn tiểu thuyết này: "Và có lẽ điểm mới nhất trong kết cấu Thân phận của tình yêu là chỗ tác giả lấy trục thời gian chi phối mọi hành động xuyên suốt các tính cách nhân vật trải rộng trên các vùng không gian mênh mông của chiến trường từ Bắc chí Nam" [31,3].
    Như vậy, chưa có một công trình nào thể hiện cái nhìn tổng quát toàn diện, có hệ thống, chuyên sâu trong việc nghiên cứu đề tài chiến tranh chống Mỹ trong tiểu thuyết Bảo Ninh. Vì thế, có một cái nhìn hệ thống về đề tài chiến tranh chống Mỹ trong truyện ngắn Bảo Ninh là một vấn đề cần thiết.
    3. Mục đích yêu cầu của việc giải quyết đề tài
    3.1 Chỉ ra được phương thức tiếp cận và thể hiện đề tài chiến tranh trong truyện ngắn Bảo Ninh.
    3.2 So sánh việc thể hiện đề tài chiến tranh trong tập truyện ngắn này với việc thể hiện đề tài chiến tranh trong tiểu thuyết Thân phận của tình yêu.
    3.3 Từ việc giải quyết những vấn đề trên, góp phần hiểu thêm một số đặc điểm của truyện ngắn.
    4. giới hạn của việc giải quyết đề tài
    1. Luận văn nghiên cứu đề tài chiến tranh trong những truyện ngắn Bảo Ninh được tập hợp trong Truyện ngắn Bảo Ninh do Nxb Công an ấn hành năm 2002. Đó là những truyện ngắn: Trại bảy chú lùn, Thời tiết của ký ức, Hà Nội lúc không giờ, Rửa tay gác kiếm, Mây trắng còn bay, Hữu khuynh, Khắc dấu mạn thuyền, Ngôi sao vô danh, Bí ẩn của làn nước, Bên lề cuộc tấn công, Lá thư từ Quý Sửu, Ba lẻ một, La-mác xây-e.
    2. Đối sánh với tiểu thuyết Thân phận của tình yêu của cùng tác giả ở những vấn đề liên quan.
    5. phương pháp nghiên cứu
    Vận dụng những phương pháp nghiên cứu văn học phổ biến: phương pháp khảo sát - thống kê, phương pháp miêu tả - phân tích và chú trọng phương pháp so sánh: so sánh trong nội bộ tập truyện ngắn, so sánh những vấn đề liên quan ở tiểu thuyết Thân phận của tình yêu.
    6. dự kiến đóng góp của luận văn
    Luận văn đi sâu tìm hiểu nghiên cứu về đề tài chiến tranh chống Mỹ trong truyện ngắn Bảo Ninh một cách có hệ thống trong sự đối sánh với tiểu thuyết Thân phận của tình yêu của cùng tác giả.
    7. cấu trúc của luận văn
    Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung chính của luận văn được triển khai qua 3 chương:
    Chương 1. Chiến tranh và nhân cách con người
    Chương 2. Chiến tranh và tình yêu
    Chương 3. Hai điểm nhìn chiến tranh



    Chương 1
    chiến tranh và nhân cách con người


    1.1. Nhìn qua truyện ngắn về đề tài chiến tranh sau 1975
    Từ lâu đề tài chiến tranh đã đi vào trong văn học. Tuy nhiên ở mỗi thời đại, mỗi dân tộc trong những bối cảnh cụ thể, vấn đề này được đề cập trong văn học với những mức độ khác nhau.
    Cuộc chiến tranh chống Mỹ kéo dài hơn 20 năm. Dân tộc Việt Nam đã phải đương đầu với một đế quốc hùng mạnh nhất thế giới, do đó, chiến thắng đế quốc Mỹ là một sự nghiệp vĩ đại đòi hỏi những hy sinh to lớn. Con người không thể vì hạnh phúc cá nhân mà yên lặng trước sự giày xéo của quân thù. Cuộc chiến đấu với giặc ngoại xâm giống như một cuộc trường chinh không ngưng nghỉ, chiến tranh là một chuỗi dài khó khăn gian khổ. Các nhà văn thời kỳ này có nhiệm vụ phải nhận lấy sự ký thác của lịch sử là ca ngợi chủ nghĩa anh hùng. Trách nhiệm lớn lao của các nhà văn là: "phải có những tác phẩm xứng đáng chẳng những để biểu dương sự nghiệp kháng chiến kiến quốc bấy giờ mà còn để lưu truyền cái lịch sử oanh liệt kháng chiến kiến quốc cho hậu thế" [61,27].
    Trong văn học 1945-1975 (9 năm văn học kháng Pháp và hơn 20 năm văn học chống Mỹ) với tư duy sử thi, các cây bút phản ánh cuộc tử sinh của dân tộc với những quan tâm là "viết cái gì?" hơn là "viết như thế nào?". Bởi vậy, ở giai đoạn này, trong các bài, thư, báo bàn về văn nghệ, Đảng và Hồ Chí Minh đều nhấn mạnh các yếu tố về nội dung được yêu cầu như: "biểu dương", "ghi lại cho được", "phản ánh chân thật". Văn học Việt Nam ở thời kỳ này cái nhìn về cuộc chiến còn phiến diện, chỉ ca ngợi mà chưa khơi sâu, mô tả những đau khổ của chiến tranh, những con người dù cận kề cái chết vẫn được lý tưởng hóa. Đó là hình ảnh của những người anh hùng như anh Núp, Tnú ., đó là hình ảnh của chị Sứ, chị út Tịch . Những điều đó đã đem lại cho văn xuôi trong thời kỳ này ít nhiều hạn chế khi viết về đề tài chiến tranh. Trải qua bảy thế kỷ truyện ngắn dân tộc từ Lý Tế Xuyên (thế kỷ XIV) đến nay, có thể thấy rằng truyện ngắn Việt Nam đã đạt đến trình độ của truyện ngắn hiện đại, với "một kiểu tư duy mới, một cách nhìn cuộc đời, một cách nắm bắt cuộc sống rất riêng, mang tính chất thể loại" [17,37]. Thế nhưng ở giai đoạn 1945-1975 ở thể loại truyện ngắn còn có những hạn chế ở cái nhìn về cuộc chiến. Ngôn ngữ và nghệ thuật trần thuật trong các tác phẩm còn phẳng lặng, một chiều, cái gai góc, đau đáu khi viết về chiến tranh thật sự mờ nhạt hoặc là không có. Sau năm 1975, đất nước bước sang một thời kỳ mới, thời kỳ xây dựng hòa bình trong xu thế đổi mới hội nhập. Đề tài chiến tranh vẫn là nguồn cảm hứng lớn cho nhiều nhà văn. Không chỉ với những nhà văn mặc áo lính, hay những nhà văn trưởng thành từ hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc mà cả với những cây bút trẻ sinh ra và lớn lên trong cuộc sống hòa bình.
    Suy nghĩ về đề tài chiến tranh, nhà văn Chu Lai cho rằng: "Chiến tranh là một siêu đề tài và người lính cũng là siêu nhân vật. Càng khám phá, càng thấy những độ rung không mòn nhẵn. ở đó mọi thứ đều được nén chặt đến ngột ngạt và nếu biết cách khai mở thì đấy là đối tượng văn học vĩnh cửu nhất" [28,41]. Còn Nguyễn Minh Châu, dù viết rất nhiều về chiến tranh nhưng khi nhìn nhận về nó ông cũng thành thật nhận thấy: "So với tầm vóc sâu rộng của hiện thực đời sống bộ đội và nhân dân ta trong hơn một phần tư thế kỷ qua thì công việc của mình chỉ như vừa mới đặt bàn chân lên cái bậc cửa của tòa thâm cung đồ sộ, đầy biến động và thần bí, vừa mang tính chất thời cuộc vừa mang tính chất lịch sử đó", "rất nhiều cuộc đời của những con người bình thường nhưng chứa đựng số phận của cả đất nước, chứa đựng cả một bài học lớn về đường đời, đang cần ngòi bút của nhà văn soi rọi trên trang giấy" [5,8].
    Các nhà văn sau 1975 tập trung khai thác đề tài chiến tranh theo tư duy mới, điều này thực sự đem lại thành quả to lớn đối với nền văn học nước nhà. Một trong những thể loại tiên phong đổi mới của văn xuôi về đề tài chiến tranh là thể loại truyện ngắn, đây cũng là thể loại đạt được những thành tựu đổi mới sâu sắc nhất, nổi bật nhất và toàn diện nhất. Và một trong những nhà văn góp phần thay đổi truyện ngắn viết về đề tài chiến tranh sau 1975, tạo nên những rung cảm nghệ thuật mới mẻ, đặc sắc đó là Bảo Ninh.
    Bảo Ninh tên khai sinh là Hoàng ấu Phương, sinh ngày 18/10/1952 tại Diễn Châu, Nghệ An. Quê quán xã Bảo Ninh, huyện Quảng Ninh. Anh từng nhập ngũ và tham gia chiến đấu ở chiến trường Tây Nguyên.
    Trong ba lô người lính, Bảo Ninh đã cất giữ cho riêng anh những hoài niệm từ chiến trường gian khổ. Trong hành trang tinh thần của anh, chiến tranh là nỗi nhớ, là nỗi buồn nguyên khối. Viết về chiến tranh sau cuộc chiến tranh với Bảo Ninh cũng như các nhà văn quân đội là niềm hạnh phúc hay chính là món nợ văn chương cần phải trả đối với cuộc đời. Trong Truyện ngắn Bảo Ninh do Nxb Công an Nhân dân ấn hành năm 2002 có tất thảy là 16 truyện ngắn thì có đến 13 truyện viết về đề tài chiến tranh chống Mỹ: Trại "Bảy chú lùn", Ba lẻ một, Bên lề cuộc tấn công, Lá thư từ Quý Sửu, Bí ẩn của làn nước, Ngôi sao vô danh, Rửa tay gác kiếm, Mây trắng còn bay, Khắc dấu mạn thuyền, Thời tiết của ký ức, Hữu khuynh, Hà Nội lúc không giờ, La- mác-xâye.
    Trong 13 truyện ngắn viết về chiến tranh, chỉ có một truyện đứng ở thời điểm quá khứ (Bên lề cuộc tấn công) và hai truyện đứng ở thời điểm hiện tại (Mây trắng còn bay, La-mác-xây e) còn lại là truyện đan xen giữa hiện tại và quá khứ. Trong 13 truyện ngắn ấy có 9 nhân vật chính là người lính. Đó là các truyện: Trại "bảy chú lùn", Ba lẻ một, Là thư từ Quí Sửu, Ngôi sao vô danh, Rửa tay gác kiếm, Khắc dấu mạn thuyền, Bên lề cuộc tấn công, Hữu khuynh, Hà Nội lúc không giờ (trong đó có 8 nhân vật chính là người lính trở về). Thống kê như thế để thấy rằng Bảo Ninh nhìn nhận cuộc chiến hầu hết là từ hơn hai mươi năm sau. Tác giả đã cố gắng thoát ra khỏi khuôn khổ sáo mòn của đề tài chiến tranh.
    Có thể nói mạch chảy xuyên suốt trong nền văn học Việt Nam tính từ sau cách mạng tháng tám là đề tài chiến tranh. Văn học của 30 năm chiến tranh "tiêu biểu cho nền nghệ thuật còn tươi ròng sự sống, một nền nghệ thuật thấm đẫm mồ hôi, khói và thuốc súng, một nền nghệ thuật chân chất, đẹp và khỏe như những chàng trai đang độ lớn". Do yêu cầu của thời chiến tranh mỗi




    Tài liệu tham khảo


    [1] Vũ Tuấn Anh (1995), "Văn học đổi mới và phát triển", Văn học, (4).
    [2] Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
    [3] Nguyễn Minh Châu (1987), "Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa", Văn nghệ, (49).
    [4] Nguyễn Minh Châu (1987), "Người lính chiến tranh và nhà văn", Văn nghệ quân đội, (4).
    [5] Nguyễn Minh Châu (2002), Trang giấy trước đèn, phê bình và tiểu luận, Nxb Khoa học Xã hội.
    [6] Trần Cương (1986), "Về một vài hướng tiếp cận đề tài chiến tranh", Văn học, (3).
    [7] Nguyễn Văn Dân (1989), Những vấn đề lý luận văn học so sánh, Nxb Văn học, Hà Nội.
    [8] Trương Đăng Dung (2001), "Những đặc điểm cả hệ thống lý luận văn học Macxit thế kỷ XX", Văn học, (7).
    [9] Đinh Xuân Dũng (1989), "Vài suy nghĩ về những cuộc tranh luận gần đây", Văn nghệ, (19).
    [10] Đinh Xuân Dũng (1990), Hiện thực chiến tranh và sáng tạo văn học, Nxb Quân đội nhân dân.
    [11] Đinh Xuân Dũng (1990), "Đổi mới văn học chiến tranh", Văn nghệ, (51).
    [12] Trần Thanh Đạm (1989), "Bàn thêm về con người trong văn học", Văn nghệ, (35).
    [13] Phan Cự Đệ, chủ biên (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
    [14] Trung Trung Đỉnh (1987), "Suy nghĩ của người trong cuộc", Văn nghệ quân đội, (6).
    [15] Nguyễn Hương Giang (2001), "Người lính sau hòa bình trong tiểu thuyết chiến tranh thời kỳ đổi mới", Văn nghệ Quân đội, (4).
    [16] Đỗ Mai Hà (1987), "Hội thảo về truyện ngắn với đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng", Văn nghệ quân đội, (2).
    [17] Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
    [18] Đỗ Đức Hiểu (2004), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
    [19] Hoàng Ngọc Hiến (1991), "Những nghịch lý của chiến tranh", Văn nghệ, (15), tr 114 -115.
    [20] Nguyễn Hòa (1989), "Suy nghĩ về vấn đề con người trong văn học viết về chiến tranh", Văn nghệ, (51).
    [21] Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục.
    [22] Phạm Thị Hoài (1990), "Trích hội thảo về tình hình văn xuôi hiện nay", Văn nghệ, (9).
    [23] Trần Quốc Huấn (1991), "Thân phận tình yêu của Bảo Ninh", Văn học (3), tr 85.
    [24] Lê Thị Hường (1994), "Quan niệm về con người cô đơn trong truyện ngắn hôm nay", Văn học (2), tr 29.
    [25] Lê Thị Hường (1995), "Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay", Văn học (4), tr 29.
    [26] Lê Thị Hường (1995), Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1975 - 1995, Luận án tiến sĩ khoa ngữ văn, Đại học Khoa Học Xã hội Nhân văn.
    [27] Phùng Ngọc Kiếm (1998), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 - 1975, Nxb Đại học Quốc gia.
    [28] Chu Lai (1987), "Vài suy nghĩ về sự thật trong chiến tranh", Văn nghệ quân đội, (4), tr 15.
    [29] Tôn Phương Lan (1994), "Chiến tranh trong những tác phẩm văn xuôi được giải", Văn học (12), tr 14.
    [30] Phong Lê (1997), Văn học trên hành trình của thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
    [31] Nguyễn Trường Lịch (2006), "Tiểu thuyết Việt Nam phong phú về lượng", Văn nghệ trẻ, (39), tr 3.
    [32] Nguyễn Văn Long (1985), "Văn xuôi sau 1975 viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ", Văn nghệ quân đội, (4), tr 16.
    [33] Nguyễn Văn Long (2000), Văn học trong thời đại mới, Nxb Giáo dục.
    [34] Phương Lựu, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà (1987), Lý luận văn học Nxb Giáo dục.
    [35] Nguyên Ngọc (1991), "Văn xuôi sau 1975 - Thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển", Văn học, (4), tr 9.
    [36] Lê Thành Nghị (2001), "Tiểu thuyết Việt Nam mấy ý kiến góp bàn", Văn nghệ Quân độ,(4).
    [37] Vương Trí Nhàn (1980), Sổ tay người viết truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới. Hội Nhà văn Việt Nam.
    [38] Đặng Quốc Nhật (1980), "Mấy ý kiến về đề tài chiến tranh và sự chi phối của nó trong văn học Việt Nam hiện đại", Văn nghệ Quân đội, (4), tr 12.
    [39] Bảo Ninh (2005), Thân phận của tình yêu, Nxb Hội Nhà văn.
    [40] Bảo Ninh (2006), "Văn học đổi mới đến từ cuộc chiến", Văn nghệ, (6), tr 3.
    [41] Bảo Ninh (2006), "Nói hay viết dở", Văn nghệ trẻ (21), tr 2.
    [42] Hoàng Phê (chủ biên) (1997), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
    [43] Hồ Phương (2001), "Có gì mới trong tiểu thuyết về đề tài chiến tranh hôm nay", Văn nghệ Quân đội, (4), tr 106 -108.
    [44] Đặng Văn Sinh (1993), "Dòng đời - Một cách lý giải về người lính sau chiến tranh", Văn nghệ, (21).
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...