Tiểu Luận đề cương ôn tập thi tốt nghiệp môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác - lê nin và môn kinh tế

Thảo luận trong 'Kinh Tế Chính Trị' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Vấn đề 1

    Hàng hóa là gì? Phân tích hai thuộc tính của hàng hóa. Phân biệt hàng hóa thông thường với hàng hóa sức lao động.

    Hướng dẫn trả lời

    Trước tiên phải trình bày định nghĩa “hàng hóa” là gì, từ định nghĩa nói trên giải trình ra khi nào thí sản phẩm trở thành hàng hóa, hoặc sản phẩm của lao động chỉ trở thành hàng hóa khi bản thân nó phải hội tụ đủ điều kiện gì (sản phẩm của lao động, phải có ích (tức là công dụng của nó) phải đáp ứng một nhu cầu nào đó của con người (nhu cầu đó có thể là nhu cầu vật chất cụ thể, có thể là nhu cầu về mặt tinh thần).

    Từ đó phân tích hai thuộc tính của hàng hóa: giá trị sử dụng của hàng hóa với giá trị của hàng hóa, phân tích tiếp theo là sự thống nhất của hai thuộc tính, mâu thuẩn của hai thuộc tính nói trên.

    Trình bày hàng hóa sức lao động khác hàng hóa thông thường ở điểm nào, khi nào thí sức lao động trở thành hàng hóa, nói một cách khác điều kiện kinh tế xã hội nào thì sức lao động mới trở thành hàng hóa.

    Có thể kết luận đến khi nào (trong điều kiện nào) thì sức lao động không còn là hàng hóa.

    Vấn đề 2:

    Lịch sử ra đời và bản chất của tiền tệ. Phân tích các chức năng cơ bản của tiền tệ. Ý nghĩa nghiên cứu tiền tệ.

    Hướng dẫn trả lời

    Trình bày quá trình phát triển của nền sản xuất khi nền kinh tế phát triển đến một trình độ nhất định đòi hỏi có một vật làm trung gian – phương tiện – thuận lợi cho sự trao đổi, vật đó cũng từng là hàng hóa được ra đóng vai trò là vật ngang giá chung đáp ứng nhu cầu phát triển của nền sản xuất và lưu thông hàng hóa từng tham gia lưu thông được tách ra và trở thành tiền tệ, làm thước đo giá trị các hàng hóa trong xã hội, hàng hóa đó trở thành tiền tệ. Một sản phẩm hàng hóa muốn trở thành thước đo giá trị của các hàng hóa khác, bản thân nó cũng phải có đủ các thuộc tính của hàng hóa trên thị trường, ngoài ra nó còn phải có một số đặc điểm cần thiết về vật lý, hóa học đặc biệt so các hàng hóa khác (cần kể qua đặc tính vật lý, hóa học của vàng ) và xã hội phát triển thì kết quả hình thành tiền “đại diện” – tiền giấy.

    Ý nghĩa ra đời của tiền tệ: tạo thuận lợi cho quá trình lưu thông và sản xuất hàng hóa trong xã hội.

    Trong quá trình phát triển của nền sản xuất hàng hóa – thông qua trao đổi mua bán (bằng tiền) thì việc phát hành tiền phải tuân theo qui luật “qui luật lưu thông tiền tệ” – có thể nói qua nội dung yêu cầu của qui luật điều kiện của qui luật.

    Vấn đề 3:

    Sự hoạt động của qui luật giá trị trong nền kinh tế hàng hóa và ý nghĩa nghiên cứu qui luật này:

    Hướng dẫn trả lời


    Qui luật giá trị là qui luật kinh tế của sản xuất và lưu thông hàng hóa, qui luật giá trị (đòi hỏi) yêu cầu sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.

    Trong nền kinh tế hàng hóa mỗi người sản xuất đều tùy thuộc năng lực , trình độ điều kiện của mỗi chủ thể không thể dựa trên sự hao phí cá biệt của mỗi người, mà dựa trên sự hao phí lao động xã hội cần thiết. Bởi vậy mỗi người sản xuất phải làm sao cho sự hao phí của mình phải phù hợp với mức hao phí mà xã hội chấp nhận. Điều đó có nghĩa là khi đem hàng hóa của mình ra trao đổi trên thị trường phải tuân theo nguyên tắc ngang giá.

    Giá cả là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá trị là cơ sở của giá cả. Vì thế sự vận động của qui luật giá trị biểu hiện thông qua sự vận động của giá cả hàng hóa. Hàng hóa nào nhiều giá trị thì giá cả của nó càng cao và ngược lại.

    Thực tiễn trên thị trường ngoài quan hệ giữa giá trị và giá cả thì còn phụ thuộc vào các nhân tố khác như cạnh tranh, cung cầu, sức mua của đồng tiền những nhân tố này trên thị trường đã thường làm cho giá cả hàng hóa bị tách khỏi giá trị, nhưng xét theo một thời gian dài thì giá cả thường xoay quanh cái trục của nó là giá trị. Đó chính là cơ chế hoạt động của qui luật giá trị.

    Thông qua sự vận động của giá cả thị trường mà qui luật phát huy tác dụng.

    Ý nghỉa nghiên cứu của qui luật này: để thấy được nền kinh tế sản xuất hàng hóa bị sự chi phối tác động rất lớn của qui luật giá trị: nắm vững và khai thác được qui luật giá trị thì thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, nếu không nhận thức được tác động tích cựa của qui luật thì sự phân hóa giàu nghèo làm cho xã hội cùng với sự tác động tiêu cực làm cho nền kinh tế có thể khủng hoảng dẫn đến lãng phí sức người sức của của lực lượng sản xuất xả hội .

    Vấn đề 4:

    Quá trình sản xuất giá trị thặng dư (đặc điểm, ví dụ và nhận xét).

    Hướng dẫn trả lời

    Quá trình sản xuất giá trị thặng dư: nền kinh tế hàng hóa phát triển cao đến một trình độ nhất định thì sức lao động của công nhân làm thuê sẽ trở thành hàng hóa, khi sức lao động trở thành hàng hóa thì đồng thời tiền tệ mang hình thái là tư bản và gắn liền với nó là sự xuất hiện quan hệ sản xuất mới: quan hệ nhà tư bản và công nhân làm thuê. Thực chất mối quan hệ này là nhà Tư bản chiếm đoạt lao động của công nhân làm thuê biểu hiện ra là chiếm đoạt giá trị thặng dư. (giá trị thặng dư lá giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động của công nhân mà nhà tư bản chiếm đoạt trong quá trình lao động của công nhân).

    Ví dụ: ngày lao động 8 giờ tạo ra được một lượng giá trị là 80 đồng, nhà tư bản chỉ trả cho công nhân 60 đồng, còn 20 đồng nhà tư bản chiếm đoạt – 20 đồng đó là giá trị thặng dư.

    Mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư của công nhân làm thuê, đó là động cơ, là động lực thúc đẩy nhà tư bản đầu tư sản xuất kinh doanh bằng bất cứ giá nào.

    Vấn đề 5:

    Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư (khái niệm, ví dụ và nhận xét). Phân biệt giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch.

    Hướng dẫn trả lời

    Hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư.

    Mục đích và cũng là động cơ tích cực nhất mạnh mẽ nhất của các nhà tư bản là sản xuất giá trị thặng dư càng nhiều càng tốt do đó các nhà tư bản phải luôn luôn tìm kiếm mọi phương pháp, mọi thủ đoạn để không ngừng lam tăng cả tỷ xuất và khối lượng giá trị thặng dư.

    Có thể khái quát gọn lại có hai phương pháp để đạt mục đích:

    + Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

    + Sản xuất giá trị thặng dư tương đối

    Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối

    Trong thời kì đầu (giai đoạn mới) phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, trình độ kĩ thuật chưa cao, tiến bộ công nghệ còn thấp thì phương pháp chủ yếu để tăng giá trị thặng dư bằng cách kéo dài ngày lao động: (8 giờ, 10 giờ, 12 giờ hoặc hơn nữa trong một ngày tự nhiên 24 giờ).

    Nói một cách đầy đủ là: giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư được tạo ra do kéo dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi sản xuất lao động xã hội , giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi.

    Giả sử ngày lao động 8 giờ, trong đó 4 giờ là lao động tất yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư.

    Tỷ xuất giá trị thặng dư m’ = 44 x 100% = 100%

    Giá trị nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ trong khi thời gian lao động tất yếu không thay đổi, vẫn là 4 giờ. Trong trường hợp này thì:

    Tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là: m’ = 64 x 100% = 150%

    Như vậy, khi kéo dài ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu không thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị thặng dư tăng lên.

    Trước đây tỷ suất giá trị thặng dư là 100% nay là 150%.

    Các nhà tư bản tìm mọi cách kéo dài ngày lao động , nhưng ngày lao lao động có giới hạn nhất định.

    Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và tinh thần của người lao động quyết định. Vì công nhân cần có thời gian nghỉ ngơi giải trí phục hồi sức khỏe. Việc kéo dài ngày lao động còn vấp phải sự phản kháng của giai cấp công nhân. Còn giới hạn dưới của ngày lao động không thể bằng thời gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng dư sẽ bằng không. Như vậy về mặt kinh tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động.

    Sản xuất giá trị thặng dư tương đối

    Việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của người lao động và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp công nhân.(đòi tăng lương giảm giờ làm)

    Mặt khác, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại công nghiệp cơ khí, kĩ thuật đã tiến bộ làm cho năng xuất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng xuất lao động, bóc lột giá trị thặng dư tương đối.

    Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư được tao ra do rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng xuất lao động xã hội, nhờ đó tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ.

    M = 53 x 100% = 160%.

    Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 160%

    Bằng cách nào để có thể rút ngắn thời gian lao động tất yếu? Thời gian lao động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động.Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân hay tăng năng xuất lao động trong các ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó.

    Giá trị thặng dư siêu ngạch:

    Trong quá trình cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ phải áp dụng những phương pháp sản xuất tiến bộ nhất để tăng năng xuất lao động trong xí nghiệp của mình nhằm giảm giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội của hàng hóa, nhờ đó thu được giá trị thặng dư siêu ngạch.

    Giá trị thặng dư siêu ngạch là phần giá trị thặng dư thu được do tăng năng suất lao động cá biệt, làm cho giá trị cá biệt của hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường của nó.(giá trị xã hội).

    Theo đuổi giá trị thặng dư siêu ngạch là khát vọng của nhà tư bản và là động lực mạnh nhất thúc đẩy nhà tư bản cải tiến kỹ thuật, hợp lí hóa sản xuất không ngừng tăng năng xuất lao động , cũng qua đó làm cho năng suất lao động xã hội tăng lên nhanh chóng.

    Vấn đề 6

    Thế nào là tích lũy tư bản? Phân tích những nhân tố cơ bản tác động tới qui mô và tốc độ tích lũy tư bản

    Hướng dẫn trả lời

    Nói một cách ngắn gọn thì TÍCH LŨY TƯ BẢN là sự chuyển hóa không ngừng một phần giá trị thặng dư thành tư bản - cũng có nghĩa là tư bản hóa giá trị thặng dư.

    Với bản chất khát vọng không có giới hạn về giá trị thặng dư đã khiến cho tư bản không ngừng mở rộng sản xuất để đạt mục tiêu không ngừng tăng qui mô giá trị thặng dư. Do đó thực chất của tích lũy tư bản là sự chuyển hóa một phần giá trị thặng dư thành tư bản.

    * Những nhân tố ảnh hưởng đến qui mô và tốc độ tích lũy tư bản :

    Trường hợp khối lượng giá trị thặng dư không đổi thì qui mô tích lũy tư bản phụ thuộc vào tỉ lệ phân chia khối lượng giá trị thặng dư đó thành hai quĩ: quĩ tich1 lũy và quĩ tiêu dùng cùa nhà tư bản. Đương nhiên trong một tổng quĩ đó, tỉ lệ quĩ này tăng lên thì tỉ lệ giành cho quĩ kia giảm đi.

    Nếu tỉ lệ phân chia đó đã được xác định, thì qui mô của quĩ tích lũy tư bản phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư. Trong trường hợp này khối lượng giá trị thặng dư bị phụ thuộc vào những nhân tố sau đây:

    + Trình độ bóc lột sức lao động bằng những biện pháp : tăng cường độ lao động; cắt giảm tiền lương công nhân.

    + Trình độ tăng năng suất lao động xã hội

    + Sự chênh lệch tư bản được sử dụng và tư bản đã tiêu dùng.

    + Qui mô của tư bản trước

    Vấn đề 7:

    Thế nào là tuần hoàn tư bản và chu chuyển tư bản? Phân biệt tư bản cố định và tư bản lưu động.

    Hướng dẫn trả lời

    1. TUẦN HOÀN VÀ CHU CHUYỂN TƯ BẢN.

    Sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự thống nhất giữa quá trình sản xuất và quá trình lưu thông.

    Lưu thông của tư bản, theo nghĩa rộng là sự vận động của tư bản, nhớ đó mà tư bản lớn lên và thu được giá trị thặng dư, cũng tức là sự tuần hoàn và chu chuyển của tư bản.

    T - H - SLĐ

    . .SX .H- T’

    TLSX






    Giai đoạn thứ nhất (1) giai đoạn (mua) lưu thông

    Giai đoạn thứ hai (2) gia đoạn sản xuất

    Giai đoạn thứ ba (3) giai đoạn lưu thông

    Tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục của tư bản trải qua ba giai đoạn, lần lượt mang ba hình thái khác nhau, thực hiện ba chức năng khác nhau để rồi quay lại hình thái ban đầu có kèm theo giá trị thặng dư.

    Tuần hoàn của tư bản chỉ có thể tiến hành bình thường trong điều kiện các giai đoạn khác nhau của nó không ngừng được chuyển tiếp. Mặt khác tư bản phải nằm ở lại ở mỗi giai đoạn tuần hoàn trong một thời gian nhất định. Hay nói cách khách tuần hoàn của tư bản chỉ tiến hành một cách bình thường khi hai điều kiện sau đây được thỏa mãn: một là các giai đoạn của chúng được diễn ra liên tục; hai là các hình thái tư bản cũng tồn tại và được chuyển hòa một cách điều đặn. Vì vậy, sự vận động tuần hoàn của tư bản là sự vận động liên tục không ngừng; đồng thời là sự vận động không bị đứt quãng.

    Phù hợp với ba giai đoạn tuần hoàn của tư bản có 3 hình thái của tư bản công nghiệp: tư bản tiền tê, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa.

    Để tài sản xuất diễn ra một cách bình thường thì tư bản xã hội cũng như từng tư bản các biệt đều tồn tại cùng một lúc dưới 3 hình thái. Ba hình thái của tư bản không phải là 3 loại tư bản khác nhau, mà là 3 hình thái của một tư bản công nghiệp biểu hiện trong quá trình vận động của nó.

    2. CHU CHUYỂN CỦA TƯ BẢN :

    Sự tuần hoàn của tư bản, nếu xét nó với tư cách là một quá trình định kì đổi mới và thường xuyên lặp đi lặp lại gọi là chu chuyển tư bản. Những tư bản khác nhau chu chuyển với tôc độ khác nhau tùy theo thời gian sản xuất và thời gian lưu thông của hàng hóa. Thới gian chu chuyển của tư bản bao gồm thời gian sản xuất và thời gian lưu thông.

    Thời gian sản xuất là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực sản xuất

    Thời gian sản xuất bao gồm:

    - Thời gian lao động

    - Thời gian gián đoạn lao động

    - Thời gian dự trữ sản xuất

    Thời gian sản xuất của tư bản dài hay ngắn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: như tính chất cùa ngành sản xuất, qui mô hoặc chất lượng các sản phẩm. Sự tác động của quá trình tự nhiên đối với sản xuất. Năng xuất lao động và tình trạng dự trữ các yếu tố sản xuất. Thời gian lưu thông là thời gian tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông.

    Phân biệt tư bản cố định và tư bản lưu động:

    Các bộ phận khác nhau của tư bản sản xuất chu chuyển khônggiống nhau.

    Căn cứ vào phương thức chu chuyển khác nhau của từng bộ phận tư bản, người ta chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động.

    Tư bản cố định : là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng máy móc, thiết bị, nhà xưởng vv tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng giá trị của nó không chuyển hết một lần vào sản phẩm mà chuyển dần từng phần theo mức độ hao mòn của nó trong thời gian sản xuất.

    Tư bản lưu động: là bộ phận tư bản sản xuất tồn tại dưới dạng nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu phụ, sức lao động vv giá trị của nó được hoàn lại toàn bộ cho các nhà tư bản sau một quá trình sản xuất, khi hàng hóa được bàn xong.

    Tư bản lưu động chu chuyển nhanh hơn tư bàn cố định. Việc tăng tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động có ý nghĩa quan trọng. Một mặt, tốc độ chu chuyển của tư bản lưu động tăng lên sẽ làm tăng lương tư bản lưu động được sử dụng trong năm, do đó tiết kiệm được tư bản ứng trước.

    Căn cứ để phân chia tư bản sản xuất thành tư bản cố định và tư bản lưu động là phương thức chuyển dịch giá trị khac nhau của từng bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất

    Phù hợp với ba giai đoạn tuần hoàn của tư bản có ba hình thái của tư bản công nghiệp: tư bản tiền tệ, tư bản sản xuất và tư bản hàng hóa.

    Để tái sản xuất diễn ra một cách bình thường thì tư bản xã hội cũng như từng tư bản cá biệt đều tồn tại cùng một lúc dưới cả ba hình thái. Ba hình thái của tư bản không phải là 3 loại tư bản khác nhau, mà là ba hình thái của một tư bản công nghiệp biểu hiện trong quá trình vận động của nó.

    Vấn đề 8:

    Thế nào là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa? Lợi nhuận? Tỷ xuất lợi nhuận? Phân tích những nhân tố ảnh hưởng tới tỷ suất lợi nhuận.

    Hướng dẫn trả lời

    Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa:

    Muốn tạo ra giá trị hàng hóa, tất yếu phải chi phí một số lao động nhất định, gọi là chi phí lao động, bao gồm: lao động quá khứ, và lao động hiện tại.

    Lao động quá khứ (tức là lao động vật hóa): biểu hiện của nó lá giá trị của tư liệu sản xuất - kí hiệu là c; và lao động hiện tại (tức là lao động sống) đó là lao động tạo ra giá trị mới (v + m).

    Xét dưới gốc độc xã hội, chi phí lao động đó là chi phí thực tế của xã hội, chi phí này tao ra giá trị của hàng hóa. Kí hiệu giá trị của hàng hóa là W:

    W = c + v + m .

    Xét về mặt lượng:

    Chi phí thực tế = giá trị hàng hóa

    Song, đối với nhà tư bản , họ không phải chi phí lao động để sản xuất hàng hóa, cho nên họ không quan tâm đến điều đó. Trên thực tế, họ chỉ quan tâm đến việc ứng tư bản để mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v).

    Do đó nhà tư bản chỉ xem hao phí hết bao nhiêu lao động xã hội. C.Mác gọi chi phí đó là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, kí hiệu (k).

    Vậy, chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư bản mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hóa. Khi xuất hiện chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, thì công thức giá trị hàng hóa (W = c+v+m) sẽ chuyển thành W = k + m như vậy giữa chi phí thực tế và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự khác nhau về cả chất và lượng.

    Về mặt chất : chi phí thực tế là chi phí lao động, phản ảnh đúng, đầy đủ hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tạo ra giá trị hàng hóa, còn chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) chỉ phản ảnh hao phí tư bản của nhà tư bản mà thôi, nó không tạo ra giá trị hàng hóa.

    Vì vậy, C.Mác chỉ rõ phạm trù chi phí sản xuất không có quan hệ gì với hình thành giá trị hàng hóa, cũng như không có quan hệ gì với quá trình làm cho tư bản tăng thêm giá trị.

    Về mặt lượng: chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí thực tế:

    (c + v) < (c+v+m)

    Vì tư bản sản xuất, được hình thành tư bản cố định và tư bản lưu động cho nên chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn tư bản ứng trước (k)

    Chi phí sản xuất (k) là 120 +480 = 600 đơn vị tiền tệ.

    Tư bản ứng trước (K) là : 1200 + 480 = 1680 đơn vị tiền tệ. Tứ là (k) < (K).

    Nhưng khi nghiên cứu C.Mác thường giả định tư bản cố định hao mòn hết trong một năm , nên tổng tư bản ứng trước (K) và chi phí sản xuất luôn bằng nhau (K = k).

    Việc hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa (k) che đậy bóc lột của chủ nghĩa tư bản.

    Giá trị hàng hóa : W = k+m, trong đó k = c + v

    Nhìn vào công thức trên thì sự phân biệt giữa c +v đã biến mất, người ta thấy dường như k sinh ra m.

    Chính ở đây chi phí lao động bị che lấp bởi chi phí tư bản (k), lao động là thực thể, là nguồn gốc của giá trị thì biến mất, và giờ đây hình như toàn bộ chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa sinh ra giá trị thặng dư.

    Lợi nhuận: Giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn có khoảng chênh lệch, cho nên sau khi bán hàng hóa (giả định: giá cả = giá trị) nhà tư bản không những bù đắp số tư bản đã ứng ra, mà còn thu về một số tiền lời ngang bằng với m. Số tiền này được gọi là lợi nhuận, kí hiệu là p.

    Giá trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức biến tướng lợi nhuận .

    Nếu kí hiệu lợi nhuận là p thì công thức là:

    W = c+v+m=k+m sẽ chuyển thành : w = k + p

    Vậy giữa p và m có gì giống và khác nhau?

    Giống nhau: cả lợi nhuận (p) và giá trị thặng dư (m) đều có chung một nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân.

    Khác nhau: phạm trù giá trị thặng dư phản ánh đúng nguồn gốc và bản chất của nó là kết quả của sự chiếm đoạtlao động không công của công nhân.

    Phạm trù lợi nhuận chẳng qua là một hình thái thần bí hóa cùa giá trị thặng dư. C.Mác viết: “giá trị thặng dư, hay là lợi nhuận, chính là phần giá trị dôi ra ấy của giá trị hàng hóa so với chi phí sản xuất của nó, nghĩa là phần dôi ra của tổng số lương lao động chứa đựng tong hàng hóa so với số lượng lao động được trả công chứa đựng trong hàng hóa.”

    Vì vậy , phạm trù lợi nhuận phản ánh sai lệch bản chất quan hệ sản xuất giữa nhà tư bản và lao động làm thuê, vì nó làm cho người ta hiểu lầm rằng giá trị thặng dư không phải chỉ do lao động làm thuê tạo ra.

    Nguyên nhân của hiện tượng đó là:

    Thứ nhất: Sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xóa nhòa sự khác nhau giữa c và v, nên việc p sinh ra trong quá trình sản xuất nhờ bộ phận v được thay thế bằng k (c+v), bây giờ p được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước.

    Thứ hai: Do chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế, cho nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hóa cao hơn chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa và có thể thấp hơn giá trị hàng hóa là đã có lợi nhuận. Đối ới nhà tư bản, họ cho rằng lợi nhuận là do việc mua bán, do lưu thông tạo ra, do tài kinh doanh của nhà tư bản mà có. Điều này, được thể hiện ở chỗ, nếu nhà tư bản bán hàng hóa với giá cả bằng giá trị của nó thì khi đó p = m; nếu bán với giá cả cao hơn giá trị thí khi đó p>m; nếu bán với giá cả nhỏ hơn giá trị hàng hóa thi khi đó p<m. Nhưng xét trên phạm vi toàn xã hội và trong một thời gian dài thì tổng giá cả bằng tổng giá trị, nên tổng lợi nhuận cũng bằng tổng giá trị thặng dư. Chính sự không nhất trí về lượng giữa p và m , nên càng che dấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.

    Tỷ suất lợi nhuận

    Trên thực tế, các nhà tư bản không chỉ quan tâm đến lợi nhuận, mà còn quan tâm đến tỷ suất lợi nhuận.

    Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước.

    Nếu kí hiệu tỷ suất lợi nhuận là p’ ta có

    P’= m(c+v) x 100%

    Lợi nhuận là hình thức chuyển hóa của giá trị thặng dư, nên tỷ suất lợi nhuận cũng là sự chuyển hóa của tỷ suất giá trị thặng dư vì vậy chúng có mối liên hệ chặt chẽ với nhau . Nhưng giữa m’ và p’ lại có sự khác nhau cả chất và lượng.

    Về mặt chất : m’ phản ảnh trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê, còn p’ không phản ảnh đúng thực chất điều đó mà chỉ nói lên mức doanh lợi của việc đầu tư tư bản.

    Tỷ suất lợi nhuận chỉ cho nhà tư bản biết tư bản của tư bản đầu tư vào đâu thì có lợi hơn. Do đó, việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận là động lực thúc đẩy các nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.

    Về mặt lượng:

    P’ luôn luôn < m’, vì:

    P’ = mc+v x 100%; còn m’ = x 100%

    Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận:

    Tỷ suất giá trị thặng dư: tỷ suất giá trị thặng dư càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn và ngược lại.

    Cấu tạo hữu cơ tư bản: trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư không đổi, nếu cấu tạo hữu cơ tư bản càng cao thì tỷ suất lợi nhuận càng giảm và ngược lại.

    Tốc độ chu chuyển của tư bản: nếu tốc độ chu chuyển của tư bản càng lớn, thì tần suất sản sinh ra giá trị thặng dư trong năm của tư bản ứng trước càng nhiều lần, giá trị thặng dư theo đó mà tăng lên làm cho tỷ suất lợi nhuận cũng càng tăng.

    Tiết kiệm tư bản bất biến: trong điều kiện tỷ suất giá trị thặng dư và tư bản khả biến không đổi, nếu tư bản bất biến càng nhỏ thì tỷ suất lợi nhuận càng lớn.

    Theo công thức: P’ = mc+v x 100%

    Rõ ràng khi m và v không đổi, nếu c càng nhỏ thì p’ càng lớn.

    Bốn nhân tố trên đây đều được các nhà tư bản sử dụng , khai thác một cách triệt để, để đạt được tỷ suất lợi nhuận cao nhất. song, với những đặc điểm , điều kiện khác nhau, nên cùng một lượng tu bản như nhau đầu tư vào các ngành sản xuất khác nhau. Vì vậy các nhà tư bản ra sức cạnh tranh kịch liệt với nhau và dẫn tới việc hình thành lợi nhuận bình quân.

    Vấn đề 9:

    Phân tích quá trình cạnh tranh ngành và sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Ý nghĩa nghiên cứu vấn đề này.

    Hướng dẫn trả lời

    Biện pháp cạnh tranh: tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác, tức là phân phối tư bản (c và v) vào các ngành sản xuất khác nhau. Kết quả cuộc cạnh tranh này là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân, và giá trị hàng hóa chuyển thành giả cả sản xuất.

    Trong thực tế, ở mỗi ngành sản xuất có những điều kiện tự nhiên kinh tế, kỷ thuật và tổ chức quản lí khác nhau, nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau.

    Giả sử có 3 ngành sản xuất khác nhau, tư bản đầu tư như nhau đều 100, tỷ suất giá trị thặng dư đều bằng 100%, tốc độ chu chuyển của tư bản ở cá ngành đều như nhau. Nhưng do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong từng ngành khác nhau nên có tỷ suất lợi nhuận khác nhau.

    Ví dụ:

    Ngành sản xuất Chi phí sản xuất m’ (%) Khối lượng (m) p’ (%)

    Cơ khí 80c + 20v 100 20 20

    Dệt 70c + 30v 100 30 30

    da 60c + 40v 100 40 40

    Như vậy, cùng một khối lượng tư bản đầu tư (như nhau) 100. nhưng do cấu tạo hữu cơ khác nhau nên tỷ suất lợi nhuận khác nhau. Nhà tư bản ở ngành sản xuất có tỷ suất lợi nhuận thấp không thể bằng lòng , đứng yên trong khi những ngành khác có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. trong bảng ví dụ trên, ta thấy ngành da là ngành có cấu tạo hữu cơ của tư bản thấp nhất ( cv = 64 ) lại thu được tỷ suất lợi nhuận cao nhất (p’ = 40). Tỷ suất lợi nhuân của ngành da “hấp dẫn” các nhà tư bản (cơ khí , dệt) sẽ tự phát di chuyển tư bản sang kinh doanh ngành da, làm cho sản xuất ngành da sẽ nhiều lên (cung sẽ lớn hơn cầu), do đó giá cả của ngành này sẽ hạ thấp hơn giá trị của nó, tỷ suất lợi nhuận của ngành này sẽ giảm xuống. Ngược lại, ngành cơ khí là ngành xem như mọi nhà sản xuất đều né tránh (vì tỷ xuất lợi nhuận thấp nhất) nên sản phẩm của ngành cơ khí sẽ trở nên khan hiếm (cung thấp hơn cầu) nên giá cả sẽ tăng dần lên - cao hơn giá trị bản thân - khiến cho tỷ suất lợi nhuận của ngành cơ khí tăng lên. Như vậy, o hiện tượng di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác làm thay đổi tỷ suất lợi nhuận, làm cho ngành sản xuất nào có cung ( sản phẩm hàng hóa) lớn hơn cầu thì giá cả giảm xuống, còn ngành nào có phảm phẩm hàng hóa cầu lớn hơn cung thì giá cả tăng lên. Sự tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác làm thay đổi cả tỷ suất lợi nhuận cá biệt vốn có của các ngành. Sự tự do di chuyển tư bản này chỉ tạm dừng lại khi tỷ suất lợi nhuận ở tất cả các ngành xấp xỉ bằng nhau. Kết quà là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân.

    Kết luận: tỷ suất lợi nhuận bình quân là tỷ số tính theo % giữa tổng giá trị thặng dư và tổng số tư bản xã hội đã đầu tư vào các ngành của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, kí hiệu là (P’).

    Nếu kí hiệu P’ là tỷ suất lợi nhuận bình quân thì:

    Tổng giá trị thặng dư (m)

    P’ = x 100%

    Tổng giá trị tư liệu sản xuất (c) và tiền lương công nhân (v)


    Khi đã hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân thì tất cả các ngành sản xuất khác nhau đều có thể dựa vào đó để tính toán sao cho có thể thu được tỷ suất lợi nhuận như nhau.

    Có thể rút ra: “Lợi nhuận bình quân là số lợi nhuận bằng nhau của những tư bản bằng nhau, đầu tư vào những ngành khác nhau, bất kể cấu tạo hữu cơ của tư bản như thế nào. Kí hiệu là P: P = P x k

    Ý nhĩa nghiên cứu vấn đề này: qua nghiên cứu vấn đề này ta có thể thấy được bản chất của nền kinh tế và sản xuất hàng hóa: giá cả của hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị , giá cả phải xoay quanh giá trị; do đó xét trên phạm vi toàn xã hội dù giá cả có thể lên xuống nhưng cũng chí xoay quanh cái trục của giá trị và tổng giá cả sẽ bằng tổng giá trị , dù trong từng nơi từng lúc , từng loại hàng hóa có thể khi lên, khi xuống , dù thế nào giá cả vẫn phải xoay quanh cái trục của nó là giá trị.

    Sự chuyển hóa của giá trị hàng hóa thành giá cả sản xuất sẽ là:

    Giá cả sản xuất = chi phí sản xuất + lợi nhuận bình quân



    (vì tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân)

    Vấn đề 10:

    Phân biệt địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối và cho biết bản chất của các loại địa tô.

    Hướng dẫn trả lời

    Địa tô tư bản chủ nghĩa về bản chất nói lên sự hình thành và hoạt động của sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp.

    So với lĩnh vực công nghiệp, thương nghiệp, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp muộn hơn, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp hình thành theo 2 con đường:

    Thứ nhất: từ nên nông nghiệp do địa chủ phong kiến thống trị sang kinh doanh theo phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sử dụng lao động làm thuê điển hình như ở Đức, nước Nga Sa hoàng, Italia v.v

    Thứ hai: thông qua cuộc cách mạng dân chủ tư sản, xóa bỏ chế độ canh tác ruộng đất theo kiểu phong kiến, phát triển chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp. ví dụ như ở Pháp , Anh v.v

    Đặc điểm nỗi bật của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp là sự tồn tại của ba giai cấp chủ yếu:

    Địa chủ: sở hữu ruộng đất.

    Nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp (các nhà tư bản thuê ruộng của địa chủ để kinh doanh).

    Công nhân nông nghiệp làm thuê.

    Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa:

    Giống như các nhà tư bản kinh doanh trong công nghiệp, các nhà tư bàn kinh doanh trong nông nghiệp cũng phải thu được lợi nhuận bình quân. Như vì phải thuê ruộng của địa chủ nên ngoài lợi nhuận bình quân, nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp còn phải thu thêm một phần giá trị thặng dư dôi ra nữa, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài và nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải trả cho địa chủ dưới dạng hình thái địa tô tư bản chủ nghĩa.

    Vậy, địa tô tư bản chủ nghĩa là phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân mà các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp phải nộp cho địa chủ.

    Thực chất, địa tô tư bản chủ nghĩa chính là một hình thức chuyển hóa của giá trị thặng dư siêu ngạch hay lợi nhuận siêu ngạch.

    Phân biệt địa tô tư bản chủ nghĩa với địa tô phong kiến.

    Điểm giống nhau: đều là sự thực hiện về mặt kinh tế của quyến sở hữu về ruộng đất. cả 2 loại địa tô đều là kết quả của sự bóc lột đối với người lao động nông nghiệp.

    Điểm khác nhau: Về mặt chất , địa tô phong kiến chỉ phản ánh quan hệ sản xuất giữa hai giai cấp: địa chủ và nông dân, trong đó địa chủ trực tiếp bóc lột nông dân; còn địa tô tư bản chủ nghĩa phản ánh quan hệ giữa 3 giai cấp: địa chủ, nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp và công nhân nông nghiệp làm thuê, trong đó địa chủ gián tiếp bóc lột công nhân nông nghiệp làm thuê thông qua nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp.

    Về mặt lượng , địa tô phong kiến bao gồm toàn bộ phần sản phẩm thặng dư do nông dân tạo ra, có khi còn lấn sang cả phần sản phẩm cần thiết; còn địa tô tư bản chủ nghĩa chỉ là một phần của sản phẩm thặng dư, đó là sản phẩm tương ứng với phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp.

    Các hình thức địa tô tư bản chủ nghĩa:

    Địa tô chênh lệch

    Địa tô chênh lệch là phần địa tô thu được trênh những ruộng đất có lợi thế về điều kiện sản xuất (độ màu mỡ của đất đai tốt hơn, vị trí gấn thị trường, gần đường giao thông, hoặc ruộng đất được đầu tư để thâm canh).

    Nó là số chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung (được qui định bỡi điều kiện sản xuất trên ruộng đất xấu nhất) và giá cả sản xuất cá biệt.

    Hay có thể định lượng:

    Địa tô chênh lệch = giá cả chung - giá cả sản xuất cá biệt.

    Trong nông nghiệp, giá cả sản xuất sẽ do điều kiện sản xuất xấu nhất qui định (không giống nhu trong công nghiệp, giá cả sản xuất được qui định bỡi điều kiện sản xuất trung bình )

    Thực chất của địa tô chênh lệch là lợi nhuận siêu ngạch. Nguồn gốc của nó là một phần giá trị thặng dư do công nhân nông nghiệp làm thuê tao ra. Địa tô chênh lệch gắn với chế độ độc quyền kinh doanh ruộng đất theo lối tư bản chủ nghĩa.

    Có hai loại địa tô chênh lệch (I) và (II).

    Địa tô chênh lệch (I) là địa tô chênh lệch thu được trên những ruộng đất có độ màu mỡ tự nhiên thuộc loại trung bình và tốt, có vị trí gần thị trường hoặc gần đường giao thông.

    Địa tô chênh lệch (II) là địa tô chênh lệch thu được do đầu tư thâm canh mà có.

    Thâm canh là việc đầu tư thêm tư bản vào một đơn vị diện tích ruộng đất để nâng cao chất lượng canh tác của đất đai, nhằm tăng độ màu mỡ trên thữa ruộng đó, nâng cao sản lượng trên một đơn vị diện tích.

    Địa tô tuyết đối:

    Địa tô tuyệt đối là loại địa tô mà tất cả các nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp đều phải nộp cho địa chủ, cho dù ruộng đất đó tốt hay xấu. (đây là loại địa tô thu trên mọi thứ đất)

    Vậy, Địa tô tuyệt đối là lợi nhuận siêu ngạch dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, được hình thành do cấu tạo hữu cơ của tư bản trong nông nghiệp luôn luôn thấp hơn cấu tao hữu cơ tư bản trong công nghiệp, nó là số chênh lệch giữa giá trị nông sản phẩm và giá cả sản xuất chung.

    Địa tô tuyết đối có diểm giống nhau nhưng cũng có điểm khác biệt với địa tô chênh lệch.

    Điểm giống nhau: về thực chất địa tô tuyệt đối và địa tô chênh lệch đều là lơi nhuận siêu ngạch đều có nguồn gốc từ giá trị thặng dư, đểu là kết quả của sự chiếm đoạt lao động thặng dư của công nghiệp nông nghiệp làm thuê.

    Điểm khác biệt : do độc quyền kinh doanh ruộng đất theo kiểu tư bản chủ nghĩa là nguyên nhân sinh ra địa tô chênh lệch; còn độc quyền tư hữu ruộng đất là nguyên nhân sinh ra địa tô tuyệt đối. Vì vậy, việc xóa bỏ chế độc độc quyền tư hữu vế ruộng đất chính là cơ sở để xóa bỏ địa tô tuyệt đối. Khi đó giá cả nông sản phẩm sẽ hạ xuống và có lợi cho người tiêu dùng.

    Ngoài hai loại địa tô chủ yếu (địa tô chênh lệch và địa tô tuyệt đối) trong thực tế còn tồn tại một số loại địa tô khác nữa, như: địa tô xây dựng, địa tô hầm mỏ, địa tô độc quyền vv Về cơ bản các loại địa tô này đều là lợi nhuận siêu ngạch gắn với những lợi thế tự nhiên của đất đai. Theo C.Mác, các loại địa tô ấy “đều do địa tô nông nghiệp theo đúng nghĩa của danh từ này, có nghĩa là do địa tô nông nghiệp điều tiết”.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...