Tài liệu Đề án môn học một số ý kiến hoàn thiện về phương pháp tính và hạch toán thuế gtgt trong các doanh ng

Thảo luận trong 'Kinh Tế Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Đề án môn học một số ý kiến hoàn thiện về phương pháp tính và hạch toán thuế gtgt trong các doanh nghiệp

    lời nói đầu​​​[​IMG] Từ một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, nền kinh tế nước ta đă không ngừng phát triển. Trong sự phát triển mạnh mẽ này các doanh nghiệp trong nền kinh tế không chỉ chịu tác động của các quy luật kinh tế trong nền kinh tế thị trường mà c̣n chịu sự tác động, điều tiết quản lư của Nhà nước bằng luật pháp, kế hoạch và các công cụ, chính sách kinh tế tài chính tiền tệ.Trong các chính sách về kinh tế tài chính th́ thuế là một công cụ đắc lực, quan trọng và có hiệu quả.
    Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung trước đây nếu như các sắc thuế thuế lợi tức, thuế hàng hoá, thuế thuế doanh thu tá ra tương đối phù hợp và góp phần không nhỏ vào thu ngân sách Nhà nước th́ trong nền kinh tế thị trường những sắc thuế này đặc biệt là thuế doanh thu trở nên không c̣n phù hợp, mắc nhiều khuyết điểm. Bên cạnh đó, trong bối cảnh phát triển kinh tế trong thời ḱ mới, xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế đang diễn ra sôi nổi tạo ra nhiều nhân tố ảnh hưởng đến việc cải cách thuế trên thế giới đ̣i hỏi các quốc gia đều phải có các chính sách mới thích hợp về cải cách nhằm phù hợp với xu thế chung. Do đó trong chương tŕnh công tác cải cách thuế bước hai (1998-2000) Bộ Tài chính đă đưa ra các loại thuế mới thay thế các sắc thuế không c̣n phù hợp và đưa thêm các loại thuế mới phát sinh mà Nhà nước cần phải thu.
    Mét trong những bước cải cách này đó là thuế doanh thu được thay thế bằng thuế Giá trị gia tăng (GTGT) mà Quốc hội đă thông qua có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-1999.
    Đối với các doanh nghiệp, trong công tác hạch toán kế toán nói riêng, việc áp dụng Luật thuế mới đă dẫn đến những thay đổi đáng kể trong hầu hết các phần hành của công tác kế toán. Trong quá tŕnh thực hiện về cách tính và hạch toán thuế GTGT có không Ưt những vấn đề nảy sinh, như hạch toán không trung thực, sử dụng chứng từ kế toán tuỳ tiện, .Các vấn đề này đă được Đảng, Chính phủ, các cơ quan nhà nước và toàn thể xă hội quan tâm, đă có nhiều văn bản chỉ đạo hướng dẫn việc thực hiện chế độ kế toán trong các doanh nghiệp. Nhưng thực tế có nhiều nguyên nhân dẫn đến t́nh trạng này, trong đó phải kể đến hệ thống chính sách nói chung và chế độ kế toán nói riêng c̣n nhiều sơ hở và chưa thống nhất. Điều đó đ̣i hỏi phải có hệ thống kế toán khoa học, tính pháp lí cao và được chấp hành nghiêm túc để tổ chức công tác kế toán tốt đảm bảo cho việc cung cấp thông tin chính xác, phục vụ tốt cho công tác kiểm tra, kiểm soát tính thuế đúng và đủ của doanh nghiệp .
    Thực tế đặt ra cho chóng ta là phải nghiên cứu, đánh giá thực trạng thuế GTGT, phát hiện những bất cập của loại thuế này nói chung c̣ng nh­ về vấn đề hạch toán thuế GTGT nói riêng để đề ra hướng hoàn thiện.
    phần i​​​lư luận chung về thuế giá trị gia tăng và kế toán thuế giá trị gia tăng trong các doanh nghiệp
    A-/ lư luận chung về thuế giá trị gia tăng.​​​ i-/Thực trạng của hệ thống thuế nước ta.
    1-/ Vai tṛ của thuế và thực trạng hệ thống thuế nước ta:
    a-/ Thuế và vai tṛ của thuế trong nền kinh tế thị trường.
    * * Khái niệm.
    Theo từ điển Tiếng Việt:“Thuế là một khoản tiền hay hiện vật mà người dân hoặc các tổ chức kinh doanh, tuỳ theo tài sản, thu nhập, nghề nghiệp, .buộc phải nép cho Nhà nước theo mức quy định”
    Từ khái niệm trên ta thấy thuế có ba đặc trưng cơ bản:
    -Tính cưỡng chế: Người nép thuế phải nép một khoản thuế theo qui định của Pháp luật.
    -Tính không hoàn lại :Thuế là một khoản thu của Nhà nước, không hoàn lại trực tiếp cho người nép.
    -Tính ổn định :Số thuế phải nép được giữ ổn định trong một thời gian.
    Từ các đặc trưng cơ bản trên, thuế lại trở thành một “Chính sách kinh tế”.Chính sách thuế được sử dụng để khuyến khích hay hạn chế việc sản xuất, nhập khẩu và tiêu dùng một loại hàng hoá nào đó.Thuế trở thành công cụ để điều tiết thị trường vô cùng nhanh nhạy.
    Thuế được xem nh­ là một nhân tố đặc biệt có ư nghĩa xă hội, kinh tế, chính trị, lịch sử và là “công cụ” động viên có tính chất bắt buộc, được quy định bằng luật và không hoàn trả trực tiếp.
    *Vai tṛ của thuế trong nền kinh tế thị trường.
    Với đặc điểm, điều kiện nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xă hội chủ nghĩa th́ vai tṛ tác động của Nhà nước là rất lớn. Nhà nước điều tiết nền kinh tế thông qua các hoạt động quản lư vĩ mô nhằm định hướng cho sự h́nh thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá và tiền tệ thống nhất trong cả nước. Một trong những công cụ quan trọng giúp Nhà nước thực hiện vai tṛ điều tiết và quản lư của ḿnh đó là thuế.
    Vai tṛ của thuế trong nền kinh tế thị trường ở nước ta được thể hiện ở nhiều mặt. Ngoài vai tṛ cơ bản nhất của thuế là đảm bảo cho nguồn thu ngân sách Nhà nước, thuế c̣n là công cụ điều tiết vĩ mô cơ bản của Nhà nước.
    Thuế đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Ngân sách Nhà nước được huy động bằng nhiều cách nh­ phát hành trái phiếu, phát hành tiền, vay nước ngoài, thu thuế . Tuy nhiên việc huy động tập trung nguồn lực tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu cho các mục đích phát triển kinh tế - xă hội của một quốc gia th́ thuế là nguồn thu ngân sách chủ yếu. Ở nước ta trong thời ḱ bao cấp thuế chỉ chiếm 30% tổng thu ngân sách, phần thu ngân sách c̣n lại chủ yếu là từ khu vực kinh tế quốc doanh. Nhưng hiện nay trong nền kinh tế thị trường thuế vẫn là nguồn thu chủ yếu của ngân sách. Thuế có quan hệ hết sức chặt chẽ với Nhà nước và quá tŕnh phát triển của nền kinh tế hàng hoá. Nó là công cụ kinh tế quan trọng tạo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước.
    Bên cạnh vai tṛ đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, thuế c̣n là một công cụ điều tiết vĩ mô đắc lực của Nhà nước đối với kinh tế xă hội, là một bộ phận của chính sách tài chính quốc gia, có tầm quan trọng đặc biệt v́ nó mang tính chất chính trị, kinh tế - xă hội tổng hợp. Nhà nước sử dụng nguồn ngân sách Nhà nước, mà trong đó thuế là nguồn thu chủ yếu, để điều chỉnh giá cả thị trường và kiềm chế lạm phát. Ngoài ra thuế c̣n là công cụ định hướng sản xuất , tiêu dùng, điều tiết thu nhập và bảo hộ sản xuất trong nước thúc đẩy hôi nhập kinh tế.
    Mét chính sách thuế đúng đắn và thống nhất sẽ từng bước đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thành phần kinh tế, góp phần xây dựng một cơ cấu kinh tế giữa các ngành nghề, giữa các địa phương, giữa thị trường trong nước và ngoài nước, tham gia có hiệu quả vào sự phân công và hiệp tác lao động quốc tế. Chính sách thuế không chỉ liên quan đến các hoạt động sản xuất, đầu tư và tiết kiệm của xă hội mà nó c̣n liên quan chặt chẽ đến việc giải quyết lợi Ưch giữa ba chủ thể: Nhà nước, doanh nghiệp và từng người dân. Mặt khác, chính sách thuế c̣n làm bật dậy mọi tiềm năng của đất nước, đóng góp tích cực vào việc đảm bảo công bằng xă hội, bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế cho đất nước.
    b-/ Thực trạng của hệ thống thuế nước ta:
    Hệ thống thuế nước ta đă được cải cách cơ bản từ cuối năm 1990. Hệ thống thuế không chỉ là công cụ đảm bảo thu ngân sách mà c̣n là phương pháp quản lư điều hành các quá tŕnh tái sản xuất, là một trong những đ̣n bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy tiến bộ khoa học kĩ thuật, . Các Luật và Pháp lệnh thuế mới đă lần lượt được ban hành và từng bước được thực hiện đă có tác dụng điều tiết mạnh mẽ nền kinh tế thị trường đang phát triển, nhiều thành phần theo định hướng xă hội chủ nghĩa và tạo ra những tiền đề cho việc tiếp tục cải cách chính sách thuế của Nhà nước ta.
    Cách phân loại thuế.
    Dùa vào phương thức đánh thuế, có hai lại thuế cơ bản là thuế gián thu và thuế trực thu.
    -Thuế gián thu là thuế đánh vào hàng hoá, dịch vụ và người chịu thuế là người tiêu dùng cuối cùng.Thuế gián thu ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua cơ chế giá cả thị trường.Tuy nhiên sự ảnh hưởng đó không những chịu sự chi phối của mối quan hệ cung cầu trên thị trường, mà c̣n phụ thuộc vào bản chất của thị trường, thị trường đó là cạnh tranh hay độc quyền.
    -Thuế trực thu là loại thuế nhằm điều tiết thu nhập của các doanh nghiệp, đơn vị sản xuất kinh doanh và các cá nhân.Thuế trực thu đánh trên thu nhập, do đó, người nép thuế đồng thời là người chịu thuế.
    Dùa vào cơ sở đánh thuế có thể chia các sắc thuế thành ba loại:
    -Thuế thu nhập là loại thuế đánh trên mức thu nhập kiếm được.Thu nhập có thể từ lao động dưới dạng tiền lương, tiền công, thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh dưới dạng lợi nhuận, lợi tức, .Do đó thường có các sắc thuế như thuế thu nhập thường xuyên, thu nhập không thường xuyên, thu nhập đánh vào lợi nhuận siêu ngạch ( là loại thuế đánh trên lợi nhuận siêu ngạch, là loại thuế thường thấy trong các thời ḱ khủng hoảng kinh tế, lợi nhuận được xác định bằng cách so sánh lợi nhuận thực tế trong thời kỳ khủng hoảng với lợi nhuận trung b́nh có trong thời kỳ phát triển b́nh thường)
    -Thuế tài sản là loại thuế có cơ sở đánh thuế là giá trị tài sản, nh­ thuế bất động sản, thuế đánh vào tài sản cá nhân, .
    -Thuế tiêu dùng là loại thuế có cơ sở đánh thuế là phần thu nhập mang tiêu dùng trong hiên tại. Nó được biểu hiện dưới dạng thuế tiêu thụ đặc biệt , thuế doanh thu, thuế GTGT.
    Hiện nay trong nền kinh tế thị trường thuế đă chiếm khoảng 80-90% tổng số thu Ngân sách Nhà nước, đáp ứng được nhu cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước, giảm tỉ lệ bội chi, góp phần hạn chế và đẩy lùi lạm phát, bước đầu đă ổn định được giá cả và tiền tệ và đă có phần tích luỹ cho nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng và trả nợ, . Các kết quả đạt được của hệ thống thuế không chỉ thể hiện trong tổng thu ngân sách mà nó c̣n được thể hiện qua các mặt kinh tế, xă hội khác.
    Tuy nhiên bên cạnh đó, hệ thống thuế mới trong quá tŕnh kiểm nghiệm trong thực tế những năm qua cũng đă bộc lé một số mặt tồn tại đó là: Các sắc thuế trong hệ thống được thiết kế tách rời, chưa gắn bó hỗ trợ lẫn nhau nên không phát huy được tác dụng đồng bộ của hệ thống thuế. Mặt khác cơ cấu thuế suất thường phức tạp, có nhiều thuế suất khác nhau, trong khi đó nội dung của luật thuế và các văn bản hướng dẫn lại không quy định rơ ràng, cụ thể. Đặc biệt với thuế xuất khẩu, nhập khẩu th́ biểu thuế c̣n quá nhiều mặt hàng và thuế suất khác nhau. Do đó có thể thấy hệ thống thuế của ta vẫn c̣n phức tạp, chưa phù hợp với điều kiện và tŕnh độ của cán bộ quản lư thuế, chưa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp yên tâm phát triển sản xuất kinh doanh.
    Ngoài ra, chính sách thuế hiện hành c̣n chưa bao quát được hết các đối tượng thu và nguồn thu, về cơ bản vẫn chưa khắc phục được t́nh trạng thu chồng chéo, trùng lắp ở các khâu (thể hiện rơ ở thuế doanh thu), c̣n chưa công bằng; phân biệt giữa kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh, giữa đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài và c̣n chưa phù hợp với t́nh h́nh kinh tế xă hội đă và đang biến đổi hiện nay.
    Do đó, việc tiếp tục hoàn thiện chính sách thuế của Nhà nước ta là cần thiết, việc thay đổi thuế Giá trị gia tăng cho thuế doanh thu điểm mốc đánh dấu (được thực hiện từ ngày 1-1-1999) là một bước ngoặt lớn cho quá tŕnh đổi mới và hoàn thiện này.
    2-/ Sự cần thiết khách quan của việc áp dụng thuế GTGT trong các doanh nghiệp.
    Theo điều 1 của luật thuế GTGT:”Thuế giá trị gia tăng là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá tŕnh từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng”.
    Từ khái niệm trên ta thấy:
    Thuế GTGT chỉ phát sinh khi hàng hoá có giá trị tăng thêm trong quá tŕnh luân chuyển từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
    Thuế GTGT thuộc loại thuế gián thu, các cơ sở sản xuất kinh doanh phải xác định thuế GTGT khi đă bán hàng hoá, dịch vụ và kê khai nép thuế. Người tiêu dùng hàng hoá dịch vụ là người chịu thuế dưới dạng cộng thêm vào giá bán hàng hoá dịch vụ.
    Thuế GTGT có phạm vị thu rất rộng. Đối tượng chịu thuế là hầu hết các sản phẩm hàng hoá dịch vụ tiêu dùng trong nước từ các đối tượng không thuộc diện chịu thuế GTGT (được quy định chi tiết tại điều 4 –Nghị định số 28/1998/NĐ-CP). Thuế GTGT chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm, do đó tổng số thuế Nhà nước thu được cũng chỉ bằng thuế suất nhân với giá bán cho người tiêu dùng cuối cùng.
    Từ năm 1998 trở về trước, trong hệ thống thuế nước ta, loại thuế gián tiếp quan trọng nhất là thuế doanh thu với tổng thu tương ứng khoảng 3-4% GDP mỗi năm. Nhưng thuế doanh thu là một loại thuế phức tạp, có nhiều mức thuế suất khác nhau và biểu hiện trong khoảng rộng trên cơ sở giá bao gồm cả thuế (trong đó có cả thuế nhập khẩu). Do đó nó có một số tồn tại sau:
    Thứ nhất, diện thu thuế bị thu hẹp và đánh thuế doanh thu với nhiều mức thuế suất tuỳ theo nguồn doanh thu là một việc không thể thực hiện được, v́ thế cán bộ thu thuế phải dùa vào kinh nghiệm để xác định mức thuế dẫn tới hiện tượng thương lượng thuế giữa cán bộ thuế và đối tượng nép thuế, khó tránh khỏi tiêu cực.
    Thứ hai, cơ chế thuế này đ̣i hỏi lưu trữ hồ sơ đầy đủ, đây là một vấn đề khó khăn với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
    Thứ ba,tồn tại t́nh trạng thuế đánh trên thuế nhiều khi tạo khả năng cho người sản xuất tiến hành liên kết ngang dọc để tránh một số khâu chịu thuế, gây ra hiện tượng trèn thuế.
    Thứ tư, thuế doanh thu trên thực tế hầu nh­ không thể loại bỏ hoàn toàn yếu tố cấu thành trong giá hàng xuất khẩu. Mặt khác, về nhập khẩu, thuế doanh thu không được thu ngay khi hàng nhập vào cửa khẩu có thể dẫn tới t́nh trạng thất thu thuế, nhất là đối với công ty tư nhân.
    Thuế GTGT là loại thuế tiên tiến, hiện nay nó được áp dụng phổ biến ở hơn 100 nước trên thế giới.Thuế GTGT là thuế đánh trên giá tự tăng thêm, tức là đánh trên giá trị chênh lệch giữa các khoản bán ra của một doanh nghiệp với khoản mua vào về chi phí vật chất và dịch vụ từ các doanh nghiệp khác. Thuế GTGT đă khắc phục được các nhược điểm của thuế doanh thu, cụ thể là:
    Thứ nhất, thuế GTGT đánh vào tiêu thụ nên nó được thu ở mọi khâu của quá tŕnh sản xuất cho nên việc thu thuế ở khâu sau c̣n kiểm tra được việc nép thuế ở khâu trước nên hạn chế thất thu. Do có khấu trừ số thuế nép ở giai doạn trước ( ở thuế doanh thu th́ không) nên khắc được sù đánh trùng thuế của thuế doanh thu.
    Thứ hai, về phương pháp tính, sử dụng phương pháp kháu trừ thuế nên thuế GTGT với thuế suất áp dụng cho hàng xuất khẩu nên có thể tách thuế này ra khỏi giá thành hàng xuất khẩu một cách dễ dàng và không những không phải hợp thuế GTGT ở khâu xuất khẩu mà c̣n được thoái trả toàn bộ số thuế GTGT đă nép ở các khâu trước, do đó chi phí thực tế của hàng hoá xuất khẩu giảm so với chế độ thuế doanh thu, nó khuyến khích mạnh mẽ việc đẩy mạnh xuất khẩu, tạo cơ hội hàng xuất khẩu có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
    Mặt khác, do tính thuế theo phương pháp khấu trừ nên việc qui định hàng hoá nhập khẩu cũng phải chịu thuế GTGT như hàng hoá tương ứng được tiêu thụ trên thị trường trong nước, tạo sự cân bằng hơn và bảo hộ sản xuất trong nước, cũng như tạo thêm nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước.
    Thứ ba, bản chất thuế GTGT là mang tính trung lập về mặt kinh tế. Khác với thuế doanh thu, thuế GTGT không phải là một yếu tố trong chi phí của doanh nghiệp. Do đó nó không ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá, v́ khi nó phải nép bởi doanh nghiệp th́ nó cũng được khấu trừ ở doanh nghiệp khác và chỉ có người tiêu dùng cuối cùng mới không được khấu trừ. Đây là điểm lợi thế của việc áp dụng thuế GTGT v́ việc không tính thuế gián thu vào chi phí sản xuất nên không làm tăng giá một cách giả tạo. Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chỉ là khâu trung gian, thu thuế hộ Nhà nước rồi nép vào kho bạc Nhà nước. Chính v́ thế mà thuế GTGT khắc phục được nhược điểm là thuế đánh chồng lên thuế của thuế doanh thu, tạo nên mặt bằng cạnh tranh b́nh đẳng giữa các doanh nghiệp với nhau, từ đó thúc đẩy các doanh nghiệp tích cực tổ chức cơ cấu lại bộ máy quản lư và dây chuyền công nghệ.
    Thứ tư, thuế GTGT có diện bao quát rộng, bao gồm hầu nh­ toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. V́ vậy về lâu dài thuế GTGT có thể đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước.
    Thứ năm, áp dụng thuê GTGT tạo ra sự kiểm soát chặt chẽ hơn về thuế, góp phần chống trèn lậu thuế có hiệu quả. Việc khấu trừ thuế đầu vào dùa trên cơ sở hoá đơn chứng từ, nên buộc doanh nghiệp phải lưu giữ sổ sách kế toán đầy đủ, hoạt đọng mua bán phải có hoá đơn th́ mới được khấu trừ thuế. Doanh thu hay giá bán ra của người bán phải là giá mua vào hay chi phí của người mua, nên các đơn vị mua và bán không thể thông đồng trèn thuế v́ quyền lợi mâu thuẫn nhau.
    Ngoài ra, việc áp dụng thuế GTGT khuyến khích các doanh nghiệp giữ sổ sách kế toán tốt hơn, kích thích mạnh mẽ việc sử dụng hoá đơn, tạo điều kiện cho việc kiểm tra và thanh tra tài chính. Mặt khác khi triển khai áp dụng thuế GTGT sẽ góp phần đổi mới tư duy về cơ chế thu nép thuế (tự động kê khai, tự động nép thuế, thực hiện kiểm tra sau) và cho phép nền kinh tế nước ta nói chung tiếng nói với các nước trong khu vực và thế giới trong lĩnh vực thuế.
    Tóm lại, áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu là một sù thay đổi lớn về nội dung tư tưởng chính sách, đ̣i hỏi phải thay đổi một cách cơ bản về chế độ thuế. Mạnh dạn từ bỏ cái cũ, lạc hậu, chập nhận khó khăn ban đầu khi tiếp nhận và thực hiện cái mới nếu thấy được tính rơ ràng về mặt hiệu quả lâu dài.
    II-/ Một số nội dung cơ bản của thuế GTGT
    1-/ Quá tŕnh ra đời và phát triển của thuế GTGT trên thế giới:
    Thuế GTGT có nguồn gốc từ thuế doanh thu được nghiên cứu, áp dụng từ sau Đại chiến thế giới lần thứ nhất (1914-1918) nhằm động viên sự đóng góp rộng răi của quảng đại quần chúng nhân dân cho nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, để nhanh chóng hàn gắn vến thương chiến tranh. Thuế doanh thu được áp dụng ở Pháp từ năm 1917. Thời kỳ đầu, thuế doanh thu chỉ đánh ở giai đoạn cuối cùng của quá tŕnh lưu thông hàng hoá (khâu bán lẻ), với thuế suất rất thấp. Đầu năm 1920, thuế doanh thu được điều chỉnh, đánh vào từng khâu của quá tŕnh sản xuất. Trong thực tế, cách đánh thuế này đă phát sinh nhược điểm về tính chất trùng lắp. Nói cách khác, quá tŕnh sản xuất ra sản phẩm càng qua nhiều khâu th́ thuế càng cao và thuế chồng lên thuế. Để khắc phục nhược điểm này, năm 1936, Pháp đă cải tiến thuế doanh thu qua h́nh thức đánh thuế một lần vào công đoạn cuối cùng của quá tŕnh sản xuất (từ là khi sản phẩm được đưa vào lưu thông lần đầu). Như vậy, việc đánh thuế độc lập, một lần với độ dài của quá tŕnh sản xuất, khắc phục được hiện tượng đánh thuế trùng lắp trước đó. Tuy nhiên, chính sách thuế này lại phát sinh nhược điểm là việc thu thuế bị chậm trễ so với trước, v́ chỉ khi sản phẩm được đưa vào khâu lưu thông lần đầu, Nhà nước mới thu được thuế, .
    Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, thuế doanh thu vẫn c̣n nhược điểm nổi bật là thuế thu chồng chéo, trùng lắp, . Đến năm 1954, Chính phủ Pháp đă ban hành loại thuế mới với tên gọi là thuế giá trị gia tăng (TVA). Lúc đầu TVA được ban hành để áp dụng trước đối với ngành sản xuất, chủ yếu nhằm hạn chế việc thu thuế chồng chéo qua nhiều khâu trong lĩnh vực công nghiệp, với thuế suất đồng loạt là 20% và chỉ khấu trừ thuế ở khâu trước đối với nguyên liệu, vật liệu. Quá tŕnh thống nhất hoá Châu Âu được thúc đẩy vào những năm 50 đă có tác dụng thuận lợi để TVA được triển khai nhanh chóng ở các nước khác. Đến năm 1966, trong xu hướng cải tiến hệ thống thuế “đơn giản và hiện đại” chung ở Châu Âu, TVA được ban hành chính thức để thay thế một số sắc thuế gián thu.
    Từ năm 1978, theo yêu cầu điều hoà luật pháp của các nước thành viên Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC), nước Pháp điều chỉnh lại luật tài chính, trong đó có phần quan trọng liên quan đến TVA. Năm 1986, TVA ở Pháp được áp dụng rộng răi đối với tất cả các ngành, nghề sản xuất, lưu thông hàng hoá, dịch vụ, nhằm đáp ứng hai mục tiêu quan trọng: Bảo đảm số thu kịp thời, thường xuyên cho ngân sách Nhà nước và khắc phục t́nh trạng thu thuế trùng lắp của thuế doanh thu.
    Khai sinh từ nước Pháp, thuế TGGT đă nhanh chóng được áp dụng rộng răi trên thế giới, trở thành nguồn thu quan trọng của nhiều nước. Đến nay đă có trên 100 nước áp dụng thuế TGGT, chủ yếu là các nước Châu Phi, Châu Mỹ La Tinh, các nước trong khối Cộng đồng Châu Âu (EC) và một số nước Châu Á. Thuế GTGT không chỉ thay thế cho thuế doanh thu để loại bỏ yếu tố đánh trùng thuế mà c̣n là công cụ tăng nguồn thu và tăng cường công tác quản lư của Nhà nước.
    Về tên gọi, có nhiều nơi gọi là thuế giá trị gia tăng như Pháp, Anh, Thuỵ Điển, .Một số nước gọi là Thuế hàng hoá và dịch vụ như Canada, Niu-di- lân, . ở một số nước như Đức, Phần Lan gọi là thuê doanh thu, họ cho rằng đây không phải là loại thuế mới mà vẫn là thuế doanh thu, chỉ được thay đổi nôi dung và phương pháp thu.
    Trung Quốc là nước xă hội chủ nghĩa đầu tiên áp dụng thuế GTGT từ năm 1984. Ban đầu họ áp dụng theo phương pháp thí điểm, đúc kết kinh nghiệm trước khi đi vào hoạt động chính thức trên phạm vi rộng.
    Australia là một trong sè Ưt các nước trong tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) không áp dụng thuế GTGT. Măi đến gần đây, Australia trong quá tŕnh cải cách hệ thông thuế một cách cơ bản mới bắt đầu áp dụng thuế GTGT từ tháng 7 năm 2000.
    Theo thực tiễn áp dụng thuế GTGTở các nước, để khắc phục phần nào tính luỹ thoái của thuế GTGT, các nước áp dụng mức thuế thấp hơn đối với một số hàng hoá, dịch vụ thiết yếu.Trên thực tế, các vấn đề phức tạp gặp phải khi áp dụng thuế GTGTlà do các trường hợp ngoại lệ qui định trong luật thuế, chứ không phải là bản thân luật thuế. Các vấn đề này đă được dần dần làm rơ và giải quyết trong qua tŕnh thực hiện.
    Nói chung kinh nghiệm áp dụng thuế GTGT ở các nước cho thấy chính sách thuế GTGT càng đơn giản Ưt thuế suất càng đễ áp dụng, phát huy hiệu quả cao và lợi nhuận trong công tác quản lư
    2-/Đối tượng chịu thuế, đối tượng nép thuế: §èi t­îng ch̃u thuƠ, ®èi t­îng nép thuƠ:
    Theo Điều 2 của Luật thuế GTGT: hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam không kể hàng hoá dịch vụ được sản xuất cung ứng từ trong nước hay nhập khẩu, là đối tượng chịu thuế GTGT.
    Theo Điều 3 của Luật thuế: tổ chức, cá nhân sản suất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác nhập khẩu hàng hoá chịu thuế (gọi chung là người nhập khẩu) là đối tượng nép thuế GTGT. Đối tượng không chịu thuế GTGT gồm 26 loại hàng hoá, dịch vụ được quy định rơ.
    3-/ Căn cứ tính thuế GTGT:
    Căn cứ tính thuế GTGT là: số lượng hàng hoá, dịch vụ, giá tính thuế đơn vị và thuế suất.
    a-/ Giá tính thuế:
    Đối với hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước, giá tính thuế GTGT là giá bán chưa có thuế GTGT. Đối với hàng hoá nhập khẩu, giá tính thuế GTGT là giá nhập khẩu (giá CIF) cộng với thuế nhập khẩu.
    Một sè quy định cụ thể:
    - Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp, giá tính thuế GTGT là giá bán của hàng hoá tính theo giá bán trả một lần, không tính theo số tiền trả từng kỳ.
    - Đối với hoạt động gia tăng hàng hoá, giá tính thuế GTGT là giá gia công.
    - Các trường hợp khác nh­: hàng hoá mang trao đổi, biếu tặng, sử dụng tiêu dùng nội bộ, giá tính thuế GTGT là giá tính thuế của hàng hoá cùng loại tương đương, với hoạt động cho thuê tài sản giá tính thuế là số tiền thu từng kỳ.
    - Giá tính thuế GTGT bao gồm cả khoản phụ thu, phối thu thêm mà cơ sở kinh doanh không được hưởng.
    b-/ Thuế suất:
    Thuế GTGT có 3 mức thuế suất là 0%, 5%, 10% . Trong đó:
    - Mức thuế 0% đối với hàng xuẩt khẩu.
     
Đang tải...