Đồ Án đề án mở ngành công nghệ thực phẩm

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Định dạng file word


    ĐỀ ÁN MỞ NGÀNH
    CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM

    I. SỰ CẦN THIẾT MỞ NGÀNH CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM

    1.1 Nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao về Công nghệ thực phẩm cho xã hội
    Công nghệ thực phẩm ngày nay có những bước tiến vũ bão, đóng góp quan trọng trong việc nâng cao giá trị của các mặt hàng nông, lâm ngư nghiệp. Những năm gần đây, ở các nước trên thế giới và trong khu vực, công nghệ thực phẩm được chú trọng phát triển vì tiềm năng to lớn trong tương lai. Hiện nay, công nghệ thực phẩm đang trợ giúp giải quyết các vấn đề toàn cầu như­: an toàn l­ương thực, xoá đói giảm nghèo . Nhận thức rõ vai trò của công nghệ thực phẩm trong đời sống xã hội, các nước trên thế giới và trong khu vực đã đầu tư­ đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ cao về công nghệ thực phẩm, đội ngũ này đang có những đóng góp quan trọng trong nghiên cứu và ứng dụng. Việt Nam là quốc gia đi sau, tụt hậu so với thế giới về công nghệ thực phẩm, đội ngũ cán bộ khoa học rất thiếu so với nhu cầu thực tế. Nhu cầu nguồn cán bộ CNTP cho các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp nhất là các cơ sở thuộc địa bàn miền núi hầu như chưa được đáp ứng, chủ yếu dựa vào các giải pháp tạm thời, đào tạo ngắn hạn theo yêu cầu công việc, tốn kém thời gian và kinh phí.
    Vùng trung du miền núi phía Bắc Việt Nam - địa bàn đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng trọng điểm của Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên gồm 15 tỉnh với diện tích 10.313.876 ha (chiếm 31 % diện tích toàn quốc), dân số 13.291.000 (40% là người dân tộc thiểu số) chiếm 15,1 % dân số cả nước, là vùng được xác định có tiềm năng lớn về phát triển nông lâm nghiệp. Chính sách của Đảng, Chính phủ thể hiện rõ việc ưu tiên phát triển nông lâm nghiệp miền núi phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
    Phát triển CNTP đang là tiềm năng to lớn ở Việt Nam nói chung và ở khu vực miền núi nói riêng. Ở khu vực miền núi phía Bắc, điều kiên tự nhiên và đất đai cho phép phát triển nông lâm nghiệp ở qui mô lớn và sản xuất sản phẩm hàng hóa chất lượng cao. Để nâng cao hiệu quả kinh tế, chất lượng và độ an toàn của các sản phẩm nông nghiệp, rất cần thiết phải có sự trợ giúp của ngành CNTP. Các sản phẩm nông lâm nghiệp ở miền núi có thể được phân làm 2 loại với mức chế biến khác nhau trên thị trường: (i) sản phẩm lương thực và thực phẩm (lúa ngô, khoai, sắn, các loại thịt, trứng .), đa phần bán ở dạng sản phẩm thô vừa sau thu hoạch hoặc qua sơ chế. Kỹ thuật và thiết bị nghèo nàn không cho phép bảo quản sản phâm lâu ngày, sau thu hoạch phải bán ngay, vì vậy giá cả lên xuống thất thường gây thiệt hại đáng kể cho người sản xuất, nhiều gia đình nhất là các hộ nghèo rất khó khăn trong việc phát triển sản phẩm. Điển hình cho việc bán sản phẩm thô là tỉnh Sơn La, có diện tích và sản lượng ngô hạt đứng đầu trong toàn quốc, nhưng 100 % số hộ ở đây bán ngô ngay sau khi thu hoạch. Theo tính toán, nếu người nông dân có thể tự chế biến hoặc bảo quản tốt, hiệu quả có thể lên đến 150% so với việc bán sản phẩm thô; (ii) các sản phẩm từ cây công nghiệp và hoa quả: miền núi phía Bắc có nhiều vùng sản xuất sản phẩm đặc sản như: chè Thái Nguyên, Tuyên Quang, Sơn La, cam Tuyên Quang, Vải Thiều Lục Ngạn, mận Bắc Hà, soài Yên Châu, Điện Biên Đối với sản phẩm chè, là loại sản phẩm tương đối dễ chế biến và bảo quản, người sản xuất chế biến sản phẩm chè chủ yếu dựa vào kinh nghiệm truyền thống, vì vậy độ an toàn không cao, chi phí đầu vào lớn làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới. Có nhiều nguyên nhân trong đó có việc chế biến thủ công rất khó kiểm soát chất lượng làm cho giá chè của Việt Nam trên thế giới thuộc loại rẻ nhất, ở phía sau rất xa so với chè của Srilanca, Ấn Độ Đối với các loại quả, việc chế biến và bảo quản sản phẩm còn là một bài toán chưa có lời giải đối với sản xuất. Đến vụ thu hoạch, quả thu hoạch với khối lượng lớn trong một thời gian ngắn, nhanh hư hỏng mất chất lượng do không được bảo quản. Ví dụ như ở Lục Ngạn, trong nhiều năm gần đây, vào thời điểm thu hoạch vải quả, giá giảm xuống chỉ còn 1-2 ngàn đồng/kg, người sản xuất chế biến sản phẩm chủ yếu là vải khô thông qua phơi sấy. Tuy nhiên thiết bị và kỹ thuật lạc hậu, không có khả năng đánh giá chất lượng và độ an toàn thực phẩm, vì thế giá cả thất thường và nhiều hộ gia đình sản xuất không có lãi. Hiện tượng sản phẩm ế đọng, hư hỏng do không có khả năng chế biến bảo quản rất phổ biến với các vùng sản xuất như: mận ở Bắc Hà, cam quýt ở Tuyên Quang, xoài Yên Châu
    Từ năm 2000 đến nay, chương trình đầu tư phát triển kinh tế xã hội và nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, nhấn mạnh việc ưu tiên đầu tư về chế biến, bảo quản nông sản. Tuy nhiên, đa phần các tỉnh miền núi phía Bắc lúng túng, khó khăn trong triển khai do thiếu nguồn cán bộ thực hiên chương trình. Nhiều tỉnh đã không thể tiếp nhận chương trình do không có năng lực triển khai.
    Miền núi phía Bắc Việt Nam có 03 cơ sở đào tạo bậc đại học (Đại học Thái Nguyên, Đại học Tây Bắc, Đại học Hùng Vương) và 01 cơ sở nghiên cứu (Viện
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...