Báo Cáo Đẩy mạnh XK gạo của VN theo quan điểm Marketing-mix

Thảo luận trong 'Marketing' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI NÓI ĐẦU

    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Qua 15 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã có những thay đổi tích cực, làm thay đổi đến mọi khía cạnh của đời sống xã hội. Chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể trong Ngoại thương, đặc biệt trong xuất khẩu gạo. Những con số báo cáo hàng năm là kết quả thật đáng tự hào của ngành nông nghiệp nước ta, thể hiện quyết tâm của nhân dân và đường lối chỉ đạo đúng đắn của Đảng và Nhà nước. Vị thế của Việt Nam đã được nâng lên, sánh vai cùng các nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới.
    Tuy nhiên, do những yếu tố chủ quan và khách quan, thực tiễn tại Việt Nam trong thời gian qua cho thấy, hoạt động xuất khẩu gạo ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập, tồn tại nhiều vấn đề bức xúc trước những biến động thất thường của tình hình chính trị và thị trường thế giới như định hướng, tổ chức quản lý, tìm đầu ra cho sản phẩm, nâng cao giá và khả năng cạnh tranh . Kết quả là, tuy khối lượng và kim ngạch xuất khẩu có tăng nhưng nhìn chung tiềm năng vẫn chưa được khai thác một cách tối ưu, mang lại hiệu quả cao nhất.
    Trong tình hình đó, nghiên cứu Marketing để tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hoạt động xuất khẩu gạo là một đòi hỏi cấp thiết và đáng quan tâm nhằm đẩy mạnh hơn nữa sản xuất và xuất khẩu gạo của Việt Nam.

    2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    Đề tài đi sâu vào phân tích đặc điểm, tình hình xuất khẩu gạo củaViệt Nam hiện nay theo quan điểm Marketing-mix đồng thời nêu lên các điểm mạnh, điểm yếu theo mô hình SWOT. Qua thực tiễn hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam, đề tài đưa ra giải pháp dưới góc độ vĩ mô và theo quan điểm Marketing-mix nhằm thúc đẩy việc xuất khẩu gạo, phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế của nước ta.

    3. Phương pháp nghiên cứu
    Đề tài sử dụng những kiến thức đã tích luỹ trong suốt quá trình học tập với những quan sát, thu thập trong thực tế, kết hợp giữa việc tổng hợp sách báo, tài liệu với việc đi sâu vào phân tích thực tiễn, tham khảo ý kiến nhằm tìm ra hướng đi hợp lý nhất.

    4. Mục đích, nội dung nghiên cứu
    Trên cơ sở tập trung phân tích, đánh giá thực trạng sản xuất và xuất khẩu của mặt hàng gạo, khoá luận đưa ra một số định huớng phát triển cho giai đoạn tiếp theo, đồng thời tìm một số giải pháp về Marketing nhằm củng cố, đẩy mạnh và phát triển mặt hàng xuất khẩu chủ lực này. Để đạt được mục đích trên, về mặt lý luận, khoá luận đã tổng hợp, thống nhất, đúc kết và phát triển những vấn đề đã và đang được nghiên cứu, đồng thời xem xét trên cơ sở thực tiễn hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm của Marketing để tìm ra hướng đi đúng đắn trong thời gian tới. Đề tài: Đẩy mạnh xuất khẩu gạo của Việt Nam theo quan điểm Marketing-mix
    ã Chương 1: Tổng quan về gạo xuất khẩu trên thế giới và tại Việt Nam.
    ã Chương 2: Thực trạng xuất khẩu gạo Việt Nam theo quan điểm Marketing-mix.
    ã Chương 3: Chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu gạo.
    Trong khuôn khổ của khoá luận tốt nghiệp của sinh viên, đề tài nhằm:
    ã Khẳng định lại vai trò của xuất khẩu gạo đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam
    ã Phân tích thực trạng xuất khẩu gạo của Việt Nam
    ã Nêu ra một số định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam.
    Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn Nguyễn Văn Thoan, các cô chú cán bộ của Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại cùng các thầy cô và bạn bè đã giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này.

    CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ GẠO XUẤT KHẨU TRÊN THẾ GIỚI VÀ TẠI VIỆT NAM
    1.1. Tổng quan về thị trường gạo thế giới
    Vấn đề tập trung của đề tài này là hoạt động xuất khẩu gạo của Việt Nam ra thị trường thế giới. Xét theo quan điểm Marketing là có tính hướng ngoại. Để đẩy mạnh xuất khẩu, Việt Nam phải luôn hướng ra môi trường kinh doanh và lấy thị trường làm cơ sở định hướng. Thị trường ở đây được hiểu là tập hợp những nhà nhập khẩu gạo hiện tại và tiềm năng. Mặt khác, nhu cầu của thị trường gạo lại chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên ngoài. Chính vì vậy, các nhà xuất khẩu gạo Việt Nam không chỉ tập trung vào các nhà nhập khẩu gạo mà còn phải hướng vào các đối thủ khác để đánh giá kịp thời khả năng cạnh tranh của họ. Nghiên cứu thị trường gạo quốc tế, nghiên cứu các nước xuất, nhập khẩu gạo chủ yếu trên thị trường là một đòi hỏi cấp thiết để ứng dụng vào tình hình cụ thể của Việt Nam, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của gạo xuất khẩu nước ta trên thị trường thế giới.
    1.1.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến cung cầu gạo thế giới
    Trong số các loại lương thực bao gồm gạo, lúa mì, ngô, kê, lúa mạch . thì gạo và lúa mì là hai loại thực phẩm chiếm vị trí quan trọng trong khẩu phần ăn hàng ngày của con người. Theo thống kê của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên hợp quốc (FAO), sản xuất lúa gạo và lúa mì đạt mức tương đương nhau. Nhìn chung, sản lượng lúa gạo có thể duy trì sự sống cho hơn 53% tổng số dân trên thế giới. Qua đó cho thấy tầm quan trọng của gạo đối với vấn đề an ninh lương thực của loài người, đặc biệt khi đặt trong bối cảnh biến động của yếu tố nhân khẩu học.
    1.1.1.1. Vấn đề sản xuất gạo trên thế giới
    Ngành sản xuất lúa gạo bị phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên như đất, nước, khí hậu . Sau nhiều năm liên tục tăng trưởng, vào năm 1995, sản xuất gạo trên thế giới giảm nhẹ với diện tích sản xuất khoảng 146 nghìn ha, sản lượng thóc toàn thế giới đạt 553 triệu tấn, tương đương khoảng 360 triệu tấn gạo. Những thành công trong sản xuất gạo là kết quả đạt được do cuộc Cách mạng xanh đem lại cùng với việc áp dụng các tiến bộ khoa học và đổi mới chiến lược kinh tế xã hội của Chính phủ các nước sản xuất gạo chủ yếu.
    Theo số liệu của Vụ Xuất nhập khẩu - Bộ Thương mại, dự đoán diện tích sản xuất lúa toàn thế giới năm 2001 là 151,9 nghìn ha. Năng suất lúa năm 2000 đạt 3,92 tấn/ ha, gấp 1,6 lần so với năng suất lúa năm 1974 là 2,45 tấn/ha. Đây là một tiến bộ vượt bậc, nhờ sử dụng những thành tựu công nghệ hiện đại vào sản xuất, đồng thời áp dụng những loại giống lúa mới cho năng suất cao. Năm 2000 cũng là năm kỉ lục về năng suất và sản lượng lúa toàn cầu là 607,4 triệu tấn so với 333,8 triệu tấn năm 1974, tăng 1,8 lần. Qua đó cho ta thấy sản lượng lúa tăng chủ yếu do năng suất tăng, là kết quả đáng khích lệ cho sản xuất lúa toàn thế giới, đảm bảo tốt nhu cầu về lương thực nói chung và lúa gạo nói riêng của loài người.
    Bảng 1.1. Tình hình sản xuất gạo của thế giới (1998-2001)
    Đơn vị tính: 1000 tấn
    Sản xuất 1998 1999 2000 2001(ước)
    Bắc Mỹ 8.747 8.836 9.795 9.062
    Mỹ Latinh 17.225 22.165 21.229 20.204
    EU 2.701 2.694 2.637 2.462
    Liên Xô cũ 1.108 1.124 1.189 1.026
    Đông Âu 56.000 52.000 56.000 56.000
    Trung Đông 3.048 3.370 2.905 2.279
    Bắc Phi 5.463 4.261 5.889 6.063
    Châu Phi còn lại 10.540 10.845 10.950 11.481
    Nam Á 165.170 172.526 183.311 179.426
    Châu Á còn lại 358.864 358.485 36.281 354.965
    Châu Đại Dương 1.324 1.362 1.101 1.761
    Nguồn: Vụ Xuất nhập khẩu – Bộ Thương mại

    1.1.1.2. Vấn đề tiêu dùng gạo trên thế giới
    Trên thế giới, phần lớn gạo được sản xuất nhằm phục vụ nhu cầu tiêu thụ trong nước, chỉ 4% sản lượng toàn cầu được đem ra buôn bán, trao đổi giữa các nước với nhau. Lúa gạo được sản xuất tập trung hoá cao độ, trong đó châu Á chiếm tới 90% tổng lượng sản xuất, 50% lượng nhập khẩu và 72% lượng xuất khẩu.
    Mức tiêu thụ gạo toàn cầu hiện nay luôn phụ thuộc vào tình hình canh tác và khả năng cung cấp của các nước sản xuất lúa gạo. Trên quy mô toàn thế giới, lượng gạo tiêu dùng tăng đáng kể từ 222,4 triệu tấn năm 1974 lên 398,6 triệu tấn năm 2000, tăng 180% và dự đoán năm 2001 là 400,8 triệu tấn. Để đảm bảo tiêu thụ ổn định cần đạt mức sản xuất hàng năm gấp 1,5 đến 2 lần mức tăng dân số. Như vậy, mức tiêu thụ gạo luôn bị khống chế bởi khả năng sản xuất và phụ thuộc vào số dân toàn cầu nên nhìn chung nếu tính theo đầu người thì không tăng.
    Trên thế giới, châu Á là khu vực tiêu thụ gạo nhiều nhất với 362,1 triệu tấn, tức 90% so với lượng tiêu dùng toàn cầu vào năm 2001 (403 triệu tấn). Điều này được giải thích bằng tập quán coi gạo là lương thực chính yếu ở châu Á, nơi tập trung trên 60% dân số toàn thế giới. Tuy nhiên, trong những năm gần, dân số các nước này tăng mạnh trong khi diện tích trồng lúa giảm đáng kể do quá trình đô thị và công nghiệp hoá. Thêm vào nữa, các thiên tai như lụt, bão, hạn hán . thường hay xảy ra nên các nước này cũng phải nhập khẩu gạo phục vụ cho nhu cầu trong nước. Các châu lục khác tiêu thụ 10% số lượng gạo còn lại. Tại châu Mỹ, châu Âu và khu vực Trung Đông, tiêu thụ gạo đã tăng đáng kể trong những năm gần đây. Cụ thể năm 2000, Bắc Mỹ tiêu thụ 4,1 triệu tấn, Mỹ Latinh 14,3 triệu tấn, EU 2 triệu tấn. Dự đoán năm 2001, các khu vực này lần lượt tiêu thụ 4,7 triệu tấn, 14,7 triệu tấn và 2,1 triệu tấn. Qua đó, có thể thấy rằng lượng gạo tiêu thụ phân bố không đồng đều và phụ thuộc nhiều vào các nước châu Á.
     
Đang tải...