Thạc Sĩ Đẩy mạnh họat động thông tin với việc cải cách nền hành chính quốc gia trong giai đọan hiện nay

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 16/12/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Mở Đầu
    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Từ đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin đó từng khẳng định: không có thông tin thỡ không
    thể có tiến bộ trong bất kỳ một lĩnh vực nào của khoa học, kỹ thuật và sản xuất vật chất.
    Đại văn hào Maksim Gorki đó từng viết: Sức mạnh và sự giàu cú của một dõn tộc khụng
    phải là ở chỗ cú nhiều đất đai, rừng, gia súc và các loại quặng quí mà là ở số lượng và chất
    lượng những con người có học thức, có lũng yờu tri thức, ở sự nhạy bộn và năng động của
    trí tuệ. Sức mạnh của một dân tộc không những nằm trong vật chất, mà phần hết sức quan
    trọng là nằm trong trí tuệ.
    Trong lịch sử phỏt triển của xó hội loài người từ xưa đến nay, chưa bao giờ thông
    tin lại đóng vai trũ to lớn và bao trựm đến vậy. Khó có thể hỡnh dung được một lĩnh vực
    hoạt động nào của con người lại không cần đến thông tin.
    Lý luận mác xít cho rằng, nắm được công cụ sản xuất thỡ mới nắm được quyền
    hành. Công cụ sản xuất mà ngày nay người công nhân cần nắm để làm chủ lấy mỡnh
    khụng phải là những cụng cụ “bỏ trong thựng hay như công cụ của xí nghiệp trong thời
    công nghiệp ống khói. Nó là thứ vật dụng nằm trong đầu óc của công nhân”1. Đó là thông
    tin, tri thức, là nguồn chủ yếu sáng tạo ra của cải và quyền lực.
    Thông tin, tri thức là thứ của cải không bao giờ hết. Nếu như đất đai, máy móc có
    thể chỉ cấp được cho một số cá nhân thôi, thỡ thụng tin, tri thức cựng lỳc cú thể cú nhiều
    người sử dụng. Và nếu vận dụng thích đáng thỡ cú thể lại sinh ra nhiều tri thức mới. Tri
    thức lấy khụng bao giờ hết và dựng khụng bao giờ cạn.
    Trong Hội thảo quốc tế về chủ đề “Sử dụng tri thức phục vụ phát triển”, Phó Thủ
    tướng Phạm Gia Khiêm đó phỏt biểu rằng: “Hiện nay 2/3 dõn số trờn thế giới cũn sống
    trong nghốo đói, lạc hậu bởi thiếu vốn, thiếu các nguồn lực để phát triển, đặc biệt là tri
    thức khoa học – công nghệ”. Khoảng cách to lớn về tri thức, trong đó có tri thức khoa học
    – công nghệ, sự bất bỡnh đẳng về tiếp cận thông tin đặt các nước đang và chậm phát triển
    trước những nhiệm vụ vô cùng khó khăn: phải tự nhận thức và tự đổi mới chính mỡnh để
    1 A. Toffler. Thăng trầm quyền lực, Nxb. Thanh niên, T.1, tr.117.
    xây dựng được năng lực tiếp thu kho tàng tri thức nhân loại, để vượt qua nghèo đói, lạc
    hậu và tiến tới phát triển, tham gia vào sáng tạo tri thức mới.
    Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX, sự phát triển như vũ bóo của khoa học,
    cụng nghệ mà mũi nhọn là cụng nghệ thụng tin đó và đang tác động đến mọi nền kinh tế,
    mọi chế độ xó hội trờn phạm vi toàn cầu. Một xó hội thụng tin, một nền kinh tế tri thức bắt
    đầu hỡnh thành. Trong nền kinh tế đó, thông tin là tất cả, thành công của công việc là nhờ
    vào “tư liệu thông tin, chứ chẳng phải là nhờ vào số tiền anh có . Tri thức có quyền lực
    lớn nhất trong giao dịch”1. Việc tỡm kiếm, khai thỏc và sử dụng hiệu quả thụng tin cú ý
    nghĩa quyết định đối với sự phát triển và thành công của mỗi cá nhân, tập thể, cộng đồng
    và quốc gia. Thực tiễn xó hội đang chứng tỏ rằng, lợi thế so sánh sẽ thuộc về quốc gia nào
    có năng lực tổ chức khai thác với hiệu quả cao nhất các nguồn thông tin và tri thức hiện có
    của nhân loại. Ở Việt Nam, nhu cầu phát triển trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
    hoá đất nước đũi hỏi phải huy động được mọi nguồn lực, trong đó nguồn lực thông tin là
    vô cùng quan trọng.
    Cải cách nền hành chính quốc gia là một đũi hỏi thường xuyên, luôn được coi là
    nhiệm vụ chính trị hàng đầu của bất kỳ quốc gia nào bởi vỡ nhiệm vụ này vừa đáp ứng yêu
    cầu của phát triển kinh tế - xó hội của đất nước, vừa tác động thúc đẩy sự phát triển kinh tế
    - xó hội.
    Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đó đánh dấu bước đổi mới quan trọng trong nhận
    thức và tư duy. Với sự đổi mới sáng suốt đó, Việt Nam đó vượt qua thử thách gian nan và
    đi lên. Con đường đi đến đổi mới không hề đơn giản. Đó là kết quả của cả quá trỡnh
    nghiờn cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đổi mới tư duy, dựa trên những thông tin khoa học,
    thông tin lý luận về thời đại, về cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, về những nhận
    thức mới đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, những vấn đề lý luận về kinh tế thị trường; vận
    dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, với tư tưởng Hồ Chí
    Minh soi đường, bài học kinh nghiệm của các nước anh em, các nước phát triển, đang phát
    triển, . Trong suốt chặng đường đổi mới đó, thông tin, tri thức luôn là nguồn lực vô giá
    của Việt Nam.
    1 A. Toffler. Thăng trầm quyền lực, Nxb. Thanh niên, T.1, tr.61.
    “Khi cơ chế thuận thỡ một sự thụng minh biến thành mười sự thông minh. Cơ chế
    chưa thuận thỡ một sự hư hỏng kéo theo hàng nghỡn sự hư hỏng. Quy luật phi tuyến ấy sẽ
    rất nghiệt ngó nhấn chỡm cỏc cộng đồng yếu kém, nhưng cũng mở ra cơ hội và khả năng
    nhảy vọt thần kỳ cho những cộng đồng thông minh và biết giá trị của trí tuệ thời nay”1.
    Ba mươi năm trước, các nhà khoa học Tây Âu đó từng phỏt hiện ra rằng họ thua
    kộm Mỹ về kinh tế, khoa học, kỹ thuật khụng phải do thiếu người tài, mà chủ yếu do
    không có cơ chế quản lý thụng minh để có thể huy động và phát huy hết mọi tài năng trong
    xó hội.
    Ở Đông Á, với cơ chế quản lý thụng minh, Hàn Quốc và Singapore, Hồng Kông đó
    đuổi kịp thế giới phát triển chỉ sau 30 năm. Đạt được thành công đó, không phải nhờ người
    dân 3 nước này thông minh hơn người dân các nước khác, mà là những nhà lónh đạo, quản
    lý của đất nước, những nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách của đất nước đó luụn
    quan tõm đến cải cách hành chính, tỡm ra được cơ chế quản lý thớch hợp để phát huy tiềm
    năng của dân tộc.
    Những tấm gương đó luôn là bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam trong suốt
    chặng đường đổi mới.
    Theo Chương trỡnh tổng thể cải cỏch hành chớnh nhà nước giai đoạn 2001-2010,
    đến năm 2010, hệ thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý
    nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa. Nội dung chủ yếu của cải cỏch bao
    gồm: Cải cỏch thể chế; Cải cỏch tổ chức bộ mỏy hành chớnh; Đổi mới, nâng cao chất
    lượng đội ngũ cán bộ, công chức; Cải cách tài chính công.
    Toàn cầu hoá buộc các cộng đồng phải đoàn kết lại. Sự thông minh của từng người
    chỉ phát huy được thông qua sự thông minh tập thể, sự thông minh hệ thống của cả cộng
    đồng. Sự thông minh hệ thống của cả cộng đồng là nguồn trí tuệ cộng đồng, là nguồn cộng
    năng tạo ra sức mạnh to lớn đưa cộng đồng vươn lên.
    Từng người dân thông minh, từng nhà khoa học giỏi, . sẽ chưa đủ. Điều hết sức
    quan trọng, mấu chốt của sự thành công là một cơ chế quản lý cú thể tập hợp và phỏt huy
    được khả năng của mỗi người, hỗ trợ họ không ngừng phát triển tri thức trong suốt cuộc
    1 Hoàng Tuỵ. Trí tuệ cộng đồng: Chỡa khoá vào kinh tế tri thức. Báo Người Lao động, Số Xuân
    Tân Tỵ, 2001.
    đời hoạt động, có cơ chế biến xó hội thành xó hội học tập suốt đời, thường xuyên trao đổi,
    chuyển giao, vận dụng, sản xuất và phát triển tri thức. Tất cả những con người tài giỏi đó
    sẽ chỉ được phát huy mọi khả năng, tài trí trong môi trường kinh tế - xó hội lành mạnh và
    thoỏng đóng, tạo nờn bởi cơ chế quản lý thụng minh, biết khuyến khích mọi sáng kiến chủ
    động, mọi tài năng sáng tạo,biết hạn chế, loại trừ mọi yếu tố, mọi xu hướng tiêu cực.
    Bước vào thời kỳ cách mạng mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
    thông tin khoa học cung cấp những thông tin như thế nào, con đường, cách thức thông tin
    ra sao để góp phần đổi mới sự lónh đạo của Đảng, cải tiến sự quản lý của Nhà nước, cải
    cách hành chính? Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy, trong thời đại kinh tế tri
    thức, không dựa vào trí tuệ, học vấn thỡ khú cú thể vươn lên. Việc khơi dậy và phát huy
    mọi tiềm năng trí tuệ của dân tộc là vấn đề quan trọng, song tổ chức, khai thác triệt để mọi
    tiềm năng ấy cho sự phát triển của đất nước nhờ một cơ chế quản lý thụng minh là điều vô
    cùng quan trọng, không thể thiếu. Đó là bài toán không hề đơn giản, trong đó, thông tin, tri
    thức, công nghệ thông tin đóng vai trũ hết sức quan trọng. Hiện nay, Việt Nam đang tích
    cực đổi mới, cải cách hành chính. Nghiên cứu vấn đề đẩy mạnh hoạt động thông tin phục
    vụ cải cách hành chính là một trong những vấn đề hết sức cấp thiết.
    2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu
    Lịch sử của thông tin đó cú từ xa xưa, song mói đến những năm 40 của thế kỷ XX,
    thông tin mới vươn lên để trở thành một mũi nhọn của thời đại. Nhất là sau khi nhà bác
    học Mỹ C. Shanon vào năm 1948 tỡm ra lý thuyết thụng tin, khỏi niệm “thụng tin” và cỏc
    phương pháp nghiên cứu có liên quan tới thông tin mới được sử dụng rộng rói trong hầu
    khắp cỏc lĩnh vực của tự nhiờn và đời sống xó hội.
    Từ sự mở đầu gian truân nhưng đầy hứa hẹn đó, cho đến nay, hơn nửa thế kỷ, loài
    người đó nghiờn cứu thụng tin trờn nhiều bỡnh diện. Chỳng tụi tạm sơ bộ khái quát một số
    bỡnh diện chính như sau:
    2.1. Nghiờn cứu trờn bỡnh diện lý luận về thụng tin
    * Về khỏi niệm và loại hỡnh thụng tin có các nhà nghiên cứu khoa học tiêu biểu
    như: R. V. L. Hartley, người đầu tiên tóm tắt khái niệm thông tin vào năm 1924 và sau đó
    năm 1950, ông và C. E. Shanon (người Mỹ) đó hoàn thiện khỏi niệm thụng tin trờn quan
    điểm toán học. Năm 1971, nhà triết học Xụviết A. D. Ursul trỡnh bày chi tiết khỏi niệm
    thụng tin trờn quan điểm thực tiễn và lịch sử. N. Winner đó xem xột khỏi niệm thụng tin
    trờn quan điểm điều khiển học. J. M. Ziman đó mụ tả thụng tin như một hỡnh thức cơ bản
    của sự tồn tại vật chất bên cạnh không gian, thời gian và vận động. Từ những năm 60 của
    thế kỷ XX và những năm gần đây, người ta tập trung nghiên cứu thông tin trên quan điểm
    triết học và quan điểm xó hội (J. M. Ziman 1965; Jukov 1971; Ursul 1971 và một số người
    khác).
    Một trong những cỏch nhỡn hiện đại là xem quá trỡnh thụng tin dưới góc độ phản
    ánh. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” V. I. Lênin
    viết: “Mọi vật chất đều có thuộc tính họ hàng với cảm giác, là thuộc tính phản ánh”. Như
    vậy, thuộc tính phản ánh là thuộc tính vốn có sẵn trong vật chất. Trong đó, nói đến thông
    tin phải nói đến hai ngôi: ngôi thứ nhất có nhiệm vụ phản ánh, ngôi thứ hai có nhiệm vụ
    cảm thụ phản ánh đó. Tuy nhiên, không nên hiểu đơn thuần khái niệm thông tin đồng nhất
    với khái niệm phản ánh. Thông tin là khái niệm tồn tại và hiện diện trong mọi vật, phản
    ánh quan hệ giữa hai ngôi: nguồn tin và người dùng tin.
    * Về sự hỡnh thành và phát triển của thông tin học. Những năm 90 của thế kỷ XX,
    người ta càng nói nhiều hơn về sự ra đời của xó hội thụng tin và nền kinh tế dựa trờn tri
    thức (GS. Nick Moore, .) với những đặc trưng cơ bản: Thông tin được coi là nguồn lực
    phát triển quan trọng nhất; Việc sử dụng thông tin ngày càng được mở rộng trong cộng
    đồng; Ra đời phát triển ngành công nghiệp mới ở ngay trong nền kinh tế: ngành công
    nghiệp thông tin.
    Tài liệu nghiên cứu về thông tin học ngày càng nhiều. Theo thống kê, toàn thế giới
    hàng năm công bố gần 10 ngàn tên tài liệu khác nhau về các vấn đề của thông tin học. Hơn
    nửa thế kỷ qua, các nhà khoa học đó đạt được những thành tích đáng kể, lý giải được nhiều
    quy luật, phần nhiều là những quy luật riêng về hiện tượng thông tin, về quá trỡnh và hệ
    thống thụng tin, về mụi trường của hoạt động thông tin.
    * Những nghiên cứu về xó hội thụng tin
    Bước vào thập niên 60, 70 của thế kỷ XX, các nhà khoa học Hoa Kỳ mà đại diện là
    F. Machlup, D. Bell và M. Porat đó đi tiên phong trong việc nghiên cứu cú hệ thống về xó
    hội thụng tin và nền kinh tế thụng tin. Năm 1962, trong công trỡnh cú tờn gọi “Sản xuất và
    phổ biến kiến thức ở Hoa Kỳ”, F. Machlup cho biết rằng, ngành công nghiệp kiến thức
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...