Thạc Sĩ Dạy học phân hóa qua tổ chức ôn tập một số chủ đề phương trình, bất phương trình, hệ phương trình vô

Thảo luận trong 'Toán Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC

    LỜI MỞ ĐẦU 1
    1. Lý do chọn đề tài 1
    2. Giả thuyết khoa học . 4
    3. Mục đích nghiên cứu 4
    4. Nhiệm vụ nghiên cứu . 4
    5. Phương pháp nghiên cứu 4
    6. Bố cục luận văn 5
    CHƯƠNG 1. DẠY HỌC PHÂN HOÁ . 6
    1.1. Tư tưởng chủ đạo về dạy học phân hoá . 6
    1.2. Dạy học phân hóa nội tại 7
    1.2.1. Quan điểm chung của dạy học phân hoá nội tại . 7
    1.2.2. Những biện pháp dạy học phân hoá . 7
    1.3. Những hình thức dạy học phân hoá . 11
    1.3.1. Dạy học ngoại khoá 11
    1.3.2. Dạy học bồi dưỡng học sinh giỏi 11
    1.3.3. Dạy học giúp đỡ học sinh yếu kém toán . 13
    1.4. Vai trò của dạy học phân hoá 14
    1.4.1. Vai trò và nhiệm vụ môn toán trong trường phổ thông 14
    1.4.2. Những ưu, nhược điểm về dạy học phân hoá trong trường phổ
    thông 15
    1.4.3. Mối quan hệ giữa dạy học phân hoá và các phương pháp dạy học
    khác 17
    1.5. Quy trình dạy học phân hoá . 18
    1.5.1. Nhiệm vụ của thầy trước khi lên lớp 18
    1.5.2. Nhiệm vụ của trò trước khi lên lớp . 23
    1.5.3. Quy trình tổ chức giờ học . 24 1.6. Phân bậc hoạt động trong dạy học môn toán . 26
    1.6.1. Những căn cứ phân bậc hoạt động . 27
    1.6.2. Điều khiển quá trình học tập dựa vào sự phân bậc hoạt động 28
    Kết luận chương 1 . 29
    CHƯƠNG 2. DẠY HỌC PHÂN HOÁ VỀ PHƯƠNG TRÌNH, BẤT PHƯƠNG
    TRÌNH VÀ HỆ PHƯƠNG TRÌNH Ở TRƯỜNG THPT 30
    2.1. Thực trạng và định hướng dạy học phân hoá môn toán ở trường phổ
    thông . 30
    2.1.1. Thực trạng dạy học phân hoá môn toán ở trường phổ thông . 30
    2.1.2. Định hướng về dạy học phân hoá môn toán ở trường phổ thông . 31
    2.1.3. Điều hành các hoạt động cho học sinh trong giờ dạy học phân
    hoá . 34
    2.2. Dạy học phân hoá các chủ đề về phương trình, bất phương trình và
    hệ phương trình vô tỷ . 37
    2.2.1. Chủ đề 1: Biến đổi tương đương phương trình, bất phương trình . 37
    2.2.2. Chủ đề 2: Sử dụng ẩn phụ trong giải phương trình và bất phương
    trình vô tỉ . 54
    2.2.3. Chủ đề 3: Lượng giác hoá phương trình và bất phương trình vô tỉ 72
    2.2.4. Chủ đề 4: Sử dụng hàm số giải phương trình và bất phương trình
    vô tỷ . 77
    2.2.5. Chủ đề 5: Những phương trình và bất phương trình vô tỉ không
    mẫu mực 83
    2.2.6. Phương trình, bất phương trình vô tỉ có chứa các biểu thức lượng
    giác, hàm mũ, logarit . 86
    2.2.7. Sử dụng điều kiện cần và đủ giải phương trình, bất phương trình
    vô tỉ 92
    2.2.8. Chủ đề 6: Hệ phương trình vô tỷ 98
    Kết luận chương 2 . 107
    CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 108
    3.1. Mục đích thực nghiệm 108
    3.2. Tổ chức thực hiện . 109
    3.2.1. Về khả năng lĩnh hội kiến thức của học sinh 109
    3.2.2. Về kết quả kiểm tra . 109
    3.3. Kết quả thử nghiệm 111
    KẾT LUẬN 113
    Tài liệu tham khảo


    LỜI MỞ ĐẦU

    1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
    Luật giáo dục nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định rõ về phương pháp giáo dục phổ thông như sau: "Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động tư duy sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm từng lớp học, từng môn học, bồi dưỡng năng lực tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui hứng thú học tập cho học sinh".
    (Luật giáo dục chương II, mục 2, điều 28).
    Tiếp đó là nghị quyết hội nghị lần thứ II Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII khẳng định: "Cuộc cách mạng về phương pháp giảng dạy phải hướng vào người học, rèn luyện và phát triển khả năng suy nghĩ, khả năng giải quyết vấn đề một cách năng động, độc lập, sáng tạo ngay trong quá trình học tập ở nhà trường phổ thông. Áp dụng những phương pháp giáo dục hiện đại để bồi dưỡng cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo, năng lực giải quyết vấn đề".
    Trong công cuộc đổi mới giáo dục Bộ giáo dục và Đào tạo cần tiến hành theo ba hướng:
    + Đổi mới sách giáo khoa ở tất cả các cấp học phổ thông.
    + Đổi mới phương pháp dạy học.
    + Đổi mới việc kiểm tra đánh giá học sinh.
    Đi đôi với việc đổi mới SGK, đổi mới chương trình dạy là đổi mới phương pháp dạy học, nhưng đổi mới phương pháp dạy học lại chưa được tiến hành với phần đông giáo viên đang trực tiếp giảng dạy trên lớp hiện nay. Số ít giáo viên đã thực hiện áp dụng phương pháp mới nhưng chưa hiệu quả, chưa tích cực hóa và khơi dậy được năng lực học tập của tất cả các đối tượng học sinh. Hầu hết các giáo viên mới chỉ quan tâm đến đối tượng học sinh có lực học trung bình, nắm được kiến thức cơ bản trong SGK còn đối tượng học sinh khá giỏi có năng lực tư duy sáng tạo về toán và học sinh có lực học yếu kém còn chưa được quan tâm, bồi dưỡng trong giờ học, chưa khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của từng cá nhân học sinh. Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, việc bồi dưỡng học sinh giỏi là vấn đề rất cần thiết và cần được thực hiện ngay ở trong những tiết học đại trà nhằm phát hiện và bồi dưỡng những tài năng cho đất nước trong tương lai. Không những đảm bảo chất lượng phổ cập, đại trà mà đồng thời chú trọng phát hiện và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu về toán. Từ trước đến nay, đổi mới phương pháp dạy học chưa được chú trọng, hầu hết các giáo viên chỉ dừng ở mức độ trang bị kiến thức cơ bản cho đối tượng học sinh có lực học loại trung bình đại trà trong lớp, chưa thực sự quan tâm bồi dưỡng đến đối tượng học sinh khá giỏi. Bởi lẽ họ có tư tưởng sợ kiến thức nặng, cháy giáo án, không đủ thời gian ngại đầu tư thời gian nghiên cứu bài soạn. Có những giáo viên vẫn dạy theo cách như đã dạy từ mấy chục năm qua, phương pháp đàm thoại chủ yếu, và về thực chất vẫn là "thầy truyền đạt, trò tiếp nhận, ghi nhớ". Trong mấy năm gần đây xuất hiện một hiện tượng là sử dụng khá phổ biến cách dạy "thầy đọc, trò chép", dạy theo kiểu nhồi nhét, dạy chay. Ngược lại, một số giáo viên lại chỉ chú ý đến đối tượng học sinh khá giỏi song chưa thực sự quan tâm đến sự tiếp thu kiến thức của đối tượng trung bình và yếu trong lớp làm cho các em này không hiểu bài và có tư tưởng sợ học, giáo viên không bồi dưỡng lấp lỗ hổng kiến thức cho các em ngay trong giờ học chính khóa. Bên cạnh đó là một số phương pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, giảng giải, vấn đáp còn nhiều mặt hạn chế, chưa khắc phục được nhược điểm này.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...