Thạc Sĩ Dạy học ca dao hài hước trong sách Giáo khoa ngữ văn 10 theo đặc trưng thể loại

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Nhu Ely, 12/4/14.

  1. Nhu Ely

    Nhu Ely New Member

    Bài viết:
    1,771
    Được thích:
    1
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LUẬN VĂN THẠC SỸ
    NĂM 2012


    MỤC LỤC
    PHẦN MỞ ĐẦU . 5
    1. Lý do chọn đề tài 5
    2. Lịch sử vấn đề. . 6
    2.1. Lịch sử vấn đề về nghiên cứu ca dao (trong đó có ca dao hài hước) . 6
    2.2. Lịch sử vấn đề phương pháp dạy học ca dao (Trong đó có ca dao hài hước) . 8
    3.Mục đích nghiên cứu . 12
    4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu . 12
    5. Phương pháp nghiên cứu 13
    6. Cấu trúc của luận văn . 13
    PHẦN NỘI DUNG . 14
    Chương 1: KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI CỦA CA DAO

    HÀI HƯỚC. 14
    1.1. Khái niệm ca dao và ca dao hài hước . 14
    1.2. Đặc trưng về nội dung của ca dao hài hước. 19
    1.3. Đặc trưng về nghệ thuật của ca dao hài hước . 35
    1.4. Ý nghĩa của ca dao hài hước . 45
    Chương 2: THỰC TẾ VÀ ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC CA DAO HÀI HƯỚC Ở THPT THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI . 46
    2.1. Thực tế dạy học ca dao hài hước ở THPT hiện tại. 46
    2.1.1. Học sinh THPT với ca dao hài hước. 47
    2.1.1.1. Tình cảm của học sinh với ca dao hài hước (Tổng số phiếu: 247) 47
    2.1.1.2. Khả năng nắm bắt nội dung của học sinh qua những bài ca dao
    hài hước đã được học (tổng số phiếu 247) 48
    2.1.1.3. Khả năng liên tưởng, tưởng tượng của học sinh khi đọc ca dao
    hài hước (tổng số phiếu 164) 49
    2.1.2. Giáo viên THPT với việc dạy các văn bản ca dao hài hước. . 55
    2.1.3. Kết luận chung về thực tế dạy và học ca dao hài hước ở lớp 10 THPT
    hiện nay. . 62
    2.2. Giá trị nội dung và nghệ thuật của các bài ca dao hài hước trong SGK
    Ngữ văn 10 THPT (bộ cơ bản và bộ nâng cao). 62
    2.2.1. Giá trị nội dung và nghệ thuật của các bài ca dao hài hước trong SGK
    Ngữ văn 10 (cơ bản). 62
    2.2.2. Giá trị nội dung và nghệ thuật của các bài ca dao hài hước trong SGK
    Ngữ văn 10 (nâng cao). 71
    2.3. Định hướng dạy học các bài ca dao hài hước trong SGK Ngữ văn 10 theo
    đặc trưng thể loại. (bộ cơ bản và bộ nâng cao) 78
    2.3.1. Mục tiêu bài học. 78
    2.3.2. Xác định nội dung bài dạy. . 79
    2.3.3. Xác định phương pháp giảng dạy. . 80
    Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM 85
    3.1. Thiết kế bài học . 85
    3.2. Dạy học thực nghiệm. 94
    3.2.1. Mục đích thực nghiệm 94
    3.2.2. Cách thức thực nghiệm . 94
    3.2.3. Kết quả dạy thực nghiệm 95
    3.2.4. Kết luận chung về thực nghiệm 95
    PHẦN KẾT LUẬN . 94
    TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
    PHẦN MỞ ĐẦU
    1. Lý do chọn đề tài

    Đổi mới phương pháp dạy học nói chung, đổi mới phương pháp dạy học
    văn nói riêng luôn là yêu cầu cấp thiết và có ý nghĩa chiến lược trong việc đào
    tạo con người mới ở nhà trường hiện nay. Trong việc đổi mới phương pháp
    dạy văn thì vấn đề giảng dạy văn học theo đặc trưng loại thể là một vấn đề
    đang được mọi người quan tâm. Văn học Việt Nam cũng như bất cứ một nền
    văn học nào trên thế giới, gồm có hai bộ phận: Văn học dân gian và văn học
    viết. Mỗi bộ phận lại có rất nhiều thể loại và đều có đặc trưng thi pháp riêng.
    Văn học dân gian Việt Nam gồm có các thể loại: Thần thoại, truyền thuyết, cổ
    tích, truyện cười, ca dao, tục ngữ, câu đố, Trong đó ca dao là một hấp dẫn
    đối với học sinh. Trong chương trình văn học dân gian ở THPT ca dao là một
    phần văn học quan trọng, có ý nghĩa lớn trong việc giáo dục văn học và văn
    hoá cho học sinh lứa tuổi thanh thiếu niên trong nhà trường.
    1.1. Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo thể loại đã được đặt ra từ
    lâu và người ta đã đề xuất cách giải quyết những vấn đề cơ bản của nó. Riêng
    về dạy học ca dao cũng vậy đã có những công trình nghiên cứu, và cũng có
    những công trình nghiên cứu về phương pháp dạy học ca dao trong nhà trường
    (Khoa học sư phạm). Nhưng lại chưa có một công trình nào nghiên cứu về dạy
    học ca dao hài hước theo đặc trưng loại thể một cách đầy đủ. Điều đó đã thôi
    thúc chúng tôi lựa chọn đề tài “Dạy học ca dao hài hước trong SGK Ngữ văn
    10 theo đặc trưng thể loại” để nghiên cứu với hi vọng góp thêm một tiếng nói
    cho vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo thể loại.
    1.2. Về thực tiễn: Trong chương trình SGK Ngữ Văn mới được thực thi
    đại trà ở năm 2006 -2007, các nhà soạn sách có đưa vào một số bài ca dao với
    3 chủ đề: Ca dao than thân, ca dao yêu thương tình nghĩa và ca dao hài hước.
    Khi thực thi chương trình ấy người giáo viên chưa hẳn đã hết những khó
    khăn bỡ ngỡ khi dạy ca dao theo hướng đặc trưng thể loại. Do vậy chúng tôi
    chọn đề tài này với hi vọng góp tiếng nói tháo gỡ những băn khoăn trăn trở
    của người dạy và người học, đáp ứng mong muốn giờ dạy ca dao có hiệu quả
    cho chính bản thân mình và các bạn đồng nghiệp.
    2. Lịch sử vấn đề.
    Hiện nay chưa có một công trình nào chuyên nghiên cứu về việc dạy
    học ca dao hài hước ở trường THPT theo đặc trưng thể loại. Vấn đề này
    chúng tôi mới chỉ thấy đề cập tới ở công trình “Con đường nâng cao chất
    lượng dạy - học ca dao ở lớp 10 THPT theo đặc trưng thể loại, ĐHTN/ ĐHSP,
    5/ 2004” của tác giả Nguyễn Trọng Đoan và công trình dạy và học tác phẩm
    văn học ở trường phổ thông trung học miền núi - NXB Giáo dục 1997 của TS.
    Hoàng Hữu Bội. Đây là tư liệu quý mà chúng tôi có thể vận dụng để giải
    quyết những vấn đề đang đặt ra của đề tài.
    Tư liệu liên quan trực tiếp đến đề tài của chúng tôi chỉ có vậy, song vì
    quan niệm rằng việc dạy bất cứ môn học nào cũng gồm hai lĩnh vực:
    1, Kiến thức cơ bản về môn học đó, nhất là những thành tựu mới nhất về
    lĩnh vực chuyên môn ấy.
    2, Kiến thức về khoa học sư phạm, đặc biệt là những yêu cầu đổi mới về
    phương pháp dạy học trong nhà trường. Vì vậy khi tìm hiểu lịch sử vấn đề của
    lịch sử dạy học ca dao trong nhà trường, buộc chúng tôi phải tìm hiểu cả hai
    lĩnh vực đó: Nghiên cứu ca dao, đặc biệt là ca dao hài hước và phương pháp
    giảng dạy ca dao trong đó có ca dao hài hước trong nhà trường.
    2.1. Lịch sử vấn đề về nghiên cứu ca dao (trong đó có ca dao hài hước).
    * Cuốn “bình giảng ca dao” của nhà giáo, nhà nghiên cứu văn học
    dân gian Hoàng Tiến Tựu - NXB Giáo dục 1992, đã nói về “Công việc
    bình giảng ca dao” như sau:
    - Một bài ca dao được chọn để bình giảng phải có ít nhất ba điều kiện sau
    đây: Thứ nhất, phải là một bài ca dao hay, có giá trị thực sự về nội dung và
    nghệ thuật, đồng thời phải có vấn đề, có chỗ để bình giảng, đáng bình giảng.
    Thứ hai, phù hợp với khả năng và sở trường của người bình giảng. Thứ ba,
    phải phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của người nghe, người đọc (trang 15).
    - Mục đích của việc bình giảng ca dao nói riêng cũng như việc nghiên
    cứu văn học dân gian nói chung, không phải chủ yếu là chứng minh cho cái
    chung và sự giống nhau. Càng không phải chỉ là như thế (mặc dù điều này
    cũng cần thiết), mà chủ yếu là tìm tòi, phát hiện và lí giải những cái riêng,
    những nét đặc thù, độc đáo, trong sáng tác dân gian của từng dân tộc, từng địa
    phương, từng thời kỳ lịch sử, cũng như cái riêng của từng tác phẩm cụ thể.
    (trang 19).
    - Người làm ca dao cũng như người làm thơ, biến ý thành tứ, người bình
    giảng ca dao va thơ phải dựa vào tứ mà làm ra ý, và khi đã hiểu rõ và nắm
    vững được chủ ý (hay chủ đề) của tác giả rồi, người bình giảng mới có điều
    kiện và cơ sở chắc chắn để tiến hành công việc bình giảng và bình luận khen
    chê bài ca dao hay bài thơ một cách kỹ càng, chính xác và tinh tế. (trang 28).
    - Trong ca dao, ngoài mối quan hệ giữa ý và tứ, còn có mối quan hệ giữa
    tình và tứ, sự và tình, đều là mối quan hệ quan trọng mà người bình giảng
    không thể không quan tâm chú ý (trang 30).
    - Muốn hiểu đúng, hiểu rõ, hiểu sâu sắc và thấu đáo một bài ca dao phải
    bám sát vào từ ngữ của nó, thông qua từ ngữ để tìm ra ý, tứ, sự, tình ở trong
    đó. Và sau khi nắm được ý, tứ, sự, tình của toàn bài, mới có điều kiện đầy đủ
    và chắc chắn để nhận rõ nghĩa đích thực (nghĩa trong bài) của các từ ngữ đã
    được tác giả sử dụng. Hiện tượng “ý tại ngôn ngoại” ở trong ca dao không
    phải là hiếm (trang 34).
    Tác giả đã vận dụng lý thuyết trên vào bình giảng một số bài ca dao hay
    trong kho tàng ca dao dân ca Việt Nam. Trong tổng số 48 bài ca dao tuyển
    chọn, có 8 bài được dạy trong chương trình THCS và THPT.
    * Cuốn “Văn học Việt Nam - Văn học dân gian, những công trình
    nghiên cứu”- NXB Giáo dục - tái bản năm 2000, của nhiều tác giả, do tiến
    sĩ Bùi Mạnh Nhị (chủ biên) đã chọn lọc, tổng hợp những công trình tiêu biểu
    trong rất nhiều công trình nghiên cứu về văn dọc dân gian. Các tác giả đề cập
    đến một số vần đề lý luận chung và phương pháp nghiên cứu văn học dân
    gian. Trong phần II “một số thể loại và tác phẩm” có 5 bài viết, nghiên cứu về
    ca dao đó là:
    - “Những yếu tố trùng lặp trong ca dao trữ tình” của tác giả Nguyễn Văn
    Lung (trang 306).
    - “Công thức truyền thống và đặc trưng cấu trúc của ca dao” của Bùi
    Mạnh Nhị (trang 317).
    - “Tìm hiểu nguồn gốc biểu tượng trong ca dao” của Nguyễn Thị Ngọc
    Điệp (trang 328).
    - “Vài nét về nội dung ca dao dân ca Nam Bộ” của Nguyễn Tấn Phát
    (trang 342).
    - “Những bài ca dao hay nhất thế gian” của Bùi Mạnh Nhị (trang 365).
    2.2. Lịch sử vấn đề phương pháp dạy học ca dao (Trong đó có ca dao
    hài hước)
    * Luận án tiến sĩ của Nguyễn Xuân Lạc “Quan điểm tiếp cận và
    phương pháp dạy học ca dao ở phổ thông trung học” (1996), đã đề xuất
    hai vấn đề:
    Quan điểm tiếp cận ca dao:
    - Dạy ca dao là một loại hình nghệ thuật đặc thù: Vừa là nghệ thuật ngôn
    từ như văn học viết, lại vừa mang bản sắc chung của một sáng tác phônclo,
    với những nét riêng về thi pháp.
    - Giao tiếp đặc thù phônclo là con đường hướng dẫn học sinh tiếp cận và
    chiếm lĩnh bài ca dao một cách có hiệu quả.
    Vận dụng các phương pháp chung về dạy học văn vào việc dạy học ca
    dao ở phổ thông trung học.
    - Định hướng học sinh tích hợp cả ba mặt nghệ thuật ngôn từ - bản sắc
    phônclo - đặc trưng thi pháp trong quá trình chiếm lĩnh một tác phẩm ca dao.
    - Hướng dẫn học sinh chiếm lĩnh chiếm lĩnh từng bài ca dao trong hệ
    thống chuỗi của nó một cách hợp lý.
    - Hướng dẫn học sinh khai thác cả hai mặt văn bản ngôn từ và các yếu tố
    ngoài văn bản bài ca dao, chú ý tái hiện không khí đồng quê, gợi công thức
    tiếp nhận phônclo để các em chiếm lĩnh tốt tác phẩm.
    Trên cơ sở đó, tác giả xây dựng mô hình hướng dẫn học sinh tiếp cận
    một bài ca dao gồm 4 bước:
    “Bước 1: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu những yếu tố nằm ngoài văn bản
    bài ca dao nhưng lại giúp ích cho việc tìm hiểu bài ca dao.
    “Bước 2: Định hướng thẩm mỹ, hướng dẫn học sinh tìm ra “trung tâm
    sáng tạo” hay là cái tứ của bài ca dao.
    “Bước 3: Từ định hướng thẩm mỹ, hướng dẫn học sinh tiến hành phân
    tích bài ca dao trong sự kết hợp giữa những yếu tố trong văn bản và những
    yếu tố ngoài văn bản.
    “Bước 4: Tổng hợp chung, đánh giá bài ca dao (trang 89-90).
    Tác giả cụ thể hoá quan điểm tiếp cận và phương pháp giảng dạy ca dao
    bằng việc thiết kế và thực nghiệm 2 bài ca dao ở chương trình lớp 10 phổ
    thông trung học.
    Tất cả những công trình trên đã bàn về việc nghiên cứu và giảng dạy ca
    dao, trên cơ sở khoa học và mang tính khả thi. Nhưng toàn bộ những công trình
    đó đều đề cập đến việc nghiên cứu và giảng dạy ca dao nói chung (dạy ca dao
    hài hước cho học sinh THPT), chưa có một công trình nào nghiên cứu cụ thể.
    Từ tất cả những ý kiến của các nhà nghiên cứu, chúng ta nhận thấy ca
    dao là một thể loại trữ tình dân gian, bản thân thể loại này đã mang trong
    mình nó tính dân tộc và truyền thống. Cùng với ca dao trữ tình, ca dao than
    thân, ca dao yêu tình nghĩa, ca dao hài hước cũng là một nội dung quan trọng
    của ca dao Việt Nam. Trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam (Đinh Gia
    Khánh chủ biên) trang 465 có đoạn viết: “Tiếng cười là một biểu hiện của thái
    độ đối với thực tại trong các thể loại tự sự và trong thể loại trữ tình. Trong ca
    dao dân ca trữ tình Việt Nam, tiếng cười có mặt trong tất cả các loại đề tài
    khác nhau. Song do phương pháp điển hình hoá thái độ chủ quan của con
    người đối với thực tại có những đặc điểm riêng, nên ở đây cần xét riêng ca
    dao trào phúng như là một thể loại của ca dao, dân ca Việt Nam”.
    Ca dao trào phúng hay nói theo SGK lớp 10 THPT là ca dao hài hước
    bộc lộ rõ nghệ thuật trào lộng dân gian Việt Nam. Cũng giống như tiếng cười,
    bản thân tính trào phúng của ca dao hài hước đã là điều hấp dẫn, học sinh rất
    ưa thích. Đồng thời, các biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong ca dao hài
    hước cũng nằm trong hệ thống biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong ca
    dao hài hước cũng nằm trong hệ thống biện pháp nghệ thuật thường được sử
    dụng trong ca dao Việt Nam, rất quen thuộc với người Việt Nam. Ca dao hài
    hước cũng ngắn gọn, dễ đọc, dễ nhớ. Nếu học sinh được hướng dẫn cách tiếp
    xúc với văn bản một cách trực tiếp, tự đọc, tự tìm tòi ý nghĩa sâu sắc của tiếng
    cười trong ca dao, dưới sự chỉ đạo của giáo viên thì học sinh sẽ khám phá
    được nhiều điều bổ ích.
    3.Mục đích nghiên cứu
    Mục đích nghiên cứu của luận văn là:
    3.1. Phát hiện ra cách tiếp cận ca dao hài hước từ đặc trưng thể loại
    của nó
    3.2. Tìm ra phương pháp tổ chức hướng dẫn học sinh THPT học các
    văn bản ca dao hài hước trong SGK sao cho hiệu quả.
    4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: Vấn đề tiếp cận ca dao hài
    hước từ đặc trưng thể loại của nó và cách thức hoạt động của thầy và trò trong
    quá trình dạy và học ca dao hài hước.
    4.2. Phạm vi nghiên cứu: Chúng tôi chỉ bàn tới cách dạy học các bài ca
    dao hài hước có trong SGK Ngữ văn 10 (bộ cơ bản và bộ nâng cao). Chỉ thực
    hiện ở học sinh lớp 10 THPT miền núi (tỉnh Hà Giang)
    5. Phương pháp nghiên cứu
    5.1. Vận dụng các phương pháp nghiên cứu về lý thuyết phân tích tổng
    hợp lý luận
    5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
    - Điều tra khảo sát: Khảo sát thực trạng dạy và học ca dao hài hước lớp
    10 THPT ở một số trường THPT miền núi (tỉnh Hà Giang), tìm ra những vấn
    đề cần giải quyết nhằm nâng cao hiệu quả giờ dạy học ca dao hài hước ở lớp
    10 THPT theo hướng thể loại.
    - Phương pháp quan sát sư phạm: Quan sát một số giờ học ca dao hài
    hước ở lớp 10 THPT để xem xét hoạt động định hướng tiếp cận, hoạt động
    chiếm lĩnh tác phẩm của thầy và trò, thái độ của học sinh với giờ dạy, thu thập
    thông tin để có cơ sở nhận xét giờ học.
    - Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
    6. Cấu trúc của luận văn
    Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn sẽ gồm 3 chương:
    Chương 1: Khái niệm và đặc trưng thể loại của ca dao hài hước.
    Chương 2: Thực tế và định hướng dạy học ca dao hài hước ở THPT
    theo đặc trưng thể loại.
    Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...