Luận Văn Đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2004-2009 Thực trạng và giải pháp

Thảo luận trong 'Đầu Tư' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÊN ĐỀ TÀI: Đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2004-2009 Thực trạng và giải pháp

    Lời mở đầu​ Lạng Sơn là tỉnh nằm ở cửa ngõ phía đông bắc của Tổ quốc, điểm đầu của con đường huyết mạch ( quốc lộ 1A) nối Việt Nam với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Với vị trí địa lý thuận lợi về kinh tế và vô cùng quan trọng về an ninh - quốc phòng, Lạng Sơn trở thành đầu mối quan trọng trong giao lưu kinh tế, văn hoá – xã hội và hợp tác kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, Lạng Sơn tự hào có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, nhiều địa danh đã đi vào lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, có truyền thống văn hoá mang đậm bản sắc của dân tộc.
    Trong mấy năm vừa qua bằng quyết tâm của mình, nhân dân các dân tộc Lạng Sơn đã vượt qua được những chặng đường khó khăn, thách thức đã tạo được những chuyển biến vượt bậc đưa nền kinh tế - xã hộ phát triển giữ vững ổn định an ninh chính trị; từng bước chuyển dịch nền kinh tế theo hướng ưu tiên phát triển lĩnh vực thương mại dụch vụ, chú trọng đầu tư phát triển các ngành công nghiệp nhất là công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm.
    Để đạt được những thành tựu ấy, có sự đóng góp rất lớn của các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nhằm xem xét và đánh giá các hoạt động đầu tư đó, em đã nghiên cứu và viết đề tài “ Đầu tư phát triển kinh tế tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2004-2009: Thực trạng và giải pháp”. Đề tài đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp thu thập và phân tích số liệu, phương pháp xử lý số liệu thứ cấp và phương pháp so sánh
    Qua bản chuyên đề này, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyên Bạch Nguyệt, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình làm chuyên đề.
    Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các cô chú trong Sở Kế hoạch và Đầu tư Lạng Sơn, đặc biệt là các anh chị trong phòng Công Thương đã cung cấp tài liệu và có những ý kiến quý báu về nội dung của bản chuyên đề.
    Cuối cùng, em xin cảm ơn các thầy, cô giáo trong Bộ môn Kinh tế Đầu tư, những người đã cho em nghị lực, niềm tin để hoàn thành chuyên đề, cũng như sự chỉ bảo dạy dỗ em trong quá trình học tập.
    Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng do bị hạn chế về kinh nghiệm thực tế và phương pháp nghiên cứu nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo trong Bộ môn Kinh tế Đầu tư, các cô chú trong sở Kế hoạch và Đầu tư Lạng Sơn, cùng các bạn để tôi có thể rút kinh nghiệm và học tập thêm những kiến thức bổ ích nhằm nâng cao chất lượng của chuyên đề.
    Lạng Sơn,tháng 5/2009Sinh viên: Đới Thành Luân​ ​CHƯƠNG I – THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ LẠNG SƠN ( 2004 – 2009)1.1. Điều kiện kinh tế – xã hội và tự nhiên có ảnh hưởng đến đầu tư phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lạng Sơn:
    1.1.1Điều kiện tự nhiên:
    1.1.1.1.Lợi thế về phát triển kinh tế cửa khẩu, thương mại, du lịch, dịch vụ
    Lạng Sơn là tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, có đường quốc lộ 1A, 1B, 4A, 4B, 279 đi qua và đường sắt liên vận quốc tế nối các nước Đông, Bắc Âu – Trung Quốc - Việt Nam – các nước ASEAN, là điểm nút của sự giao lưu kinh tế với các tỉnh phía Tây như Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, phía Đông như tỉnh Quảng Ninh, phía Nam như Bắc Giang, Bắc Ninh, Thủ đô Hà Nội và phía Bắc tiếp giáp với khu tự trị dân tộc Choang tỉnh Quảng Tây của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa với 2 cửa khẩu quốc tế, 2 cửa khẩu Quốc gia và 7 cặp chợ biên giới, ở các cửa khẩu như Hữu Nghị, cửa khẩu Ga đường sắt Đồng Đăng, Chi Ma, các cặp chợ như Tân Thanh, Cốc Nam đã được tỉnh đầu tư khang trang, hiện đại rất thuận lợi cho việc xuất nhập khẩu hàng hoá và xuất nhập cảnh của khách du lịch. Lạng Sơn có điều kiện rất thuận cho việc giao lưu kinh tế, khoa học, công nghệ với các tỉnh trong cả nước, với Trung Quốc và qua đó sang các nước vùng Trung Á .
    Với vị trí, điểu kiện thuận lợi, tỉnh Lạng Sơn đã xây dựng môi trường thuận lợi cho giao lưu phát triển kinh tế, thu hút ngày càng nhiều doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư , xuất nhập khẩu hàng hoá, phát triển du lịch, dịch vụ trên địa bàn.
    Ngày 23 tháng 2 năm 2009, với việc hoàn thành cắm cột mốc số 1116 tại cửa khẩu Hữu Nghị, Lạng Sơn đã ghi dấu ấn tốt đẹp trong những bước phát triển ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây là cầu nối hết sức quan trọng trong việc giao thương, phát triển kinh tế giữa hai nước. Điều này sẽ tạo điều kiện cho hai Bên hoàn thành việc đấu nối 2 tuyến đường cao tốc Nam Ninh - Bằng Tường và Lạng Sơn - Hà Nội trong thời gian tới, tuyến đường huyết mạch để đẩy mạnh phát triển hành lang kinh tế Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội và vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ giữa hai nước, giúp tăng cường và thúc đẩy phát triển kinh tế cửa khẩu nói riêng cũng như của cả nước nói chung.
    1.1.1.2.Thế mạnh về phát triển vùng nguyên liệu nông – lâm sản
    Tiềm năng đất đai của Lạng Sơn còn rất lớn. Toàn tỉnh có trên 277 nghìn ha đất lâm nghiệp có rừng: 68,9 nghìn ha đất nông nghiệp; 12 nghìn ha đất chuyên dùng; 4,7 nghìn ha đất ở và trên 467 nghìn ha đất chưa sử dụng, trong đó có khoảng 352 nghìn ha đất có khả năng sử dụng vào mục đích phát triển nông lâm nghiệp.
    Rừng Lạng Sơn hiện còn nhiều loại động, thực vật quý hiếm. Lớp thú ở Lạng Sơn có 8 bộ, 24 họ với 56 loài; lớp chim có 14 bộ, 46 họ với 200 loài; lớp bò sát lưỡng cư 3 bộ, 17 họ với 50 loài. Các loài động vật không xương sống thuộc bộ mười chân, bộ thân giáp, bộ hải quỳ
    Hơn nữa, điều kiện thổ nhưỡng của Lạng Sơn rất thích hợp cho phát triển các loại cây trồng như lúa, ngô, chè, thuốc lá, đậu đỗ, các loại cây công nghiệp và cây ăn quả có giá trị kinh tế cao và các loại cây lâm sản, cây đặc sản như hồi, cây nguyên liệu giấy. Vì vậy, hướng phát triển của ngành nông – lâm nghiệp Lạng Sơn là khai thác thế mạnh, tiềm năng về kinh tế đồi rừng, tạo thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung về cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày, cây công nghiệp ngắn ngày có thế mạnh, các cây lâm nghiệp cho nguyên liệu giấy.
    Đến năm 2009, Lạng Sơn đã quy hoạch và xây dựng được một số vùng sản xuất hàng hoá tập trung như: vùng hồi ở Văn Quan, Bình Gia, Cao Lộc, Văn Lãng, Tràng Định ( gần 3 vạn ha); vùng na Chi Lăng, Hữu Lũng ( 2.176 ha); vùng vải thiều ở Hữu Lũng, Chi Lăng ( trên 4.500 ha); vùng quýt Bắc Sơn ( 1.603 ha); vùng nguyên liệu thuốc lá Bắc Sơn ( 2.017 ha ); vùng chè Đình Lập ( trên 700 ha ); vùng thông, bạch đàn Lộc Bình, Đình Lập ( trên 45 nghìn ha ); vùng mía Hữu Lũng, Tràng Định, Lộc Bình (trên 150ha); vùng vải Hữu Lũng ( 4050ha)
    Sản phẩm Nông – Lâm Nghiệp phong phú trước mắt tạo điều kiện cho việc buôn bán xuất khẩu hàng hóa nông sản, là cơ sở đẩy mạnh phát triển chế biến Nông – Lâm sản. Từ đó kích thích khả năng đầu tư từ những dự án đầu tư : cơ sở chế biến tinh dầu hồi, , trồng và chế biến chè xuất khẩu, trồng thông và xây dựng nhà máy chế biến nhựa thông
    Bắt đầu đi lên công nghiệp nông nghiệp, dần dần phát triển công nghiệp tiến tới con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa.
    1.1.1.3.Tiềm năng đầu tư phát triển công nghiệp
    Tài nguyên khoáng sản khá phong phú, bao gồm 86 điểm mỏ quặng, khoáng sản thuộc 19 loại khác nhau. Nhóm khoáng sản kim loại, bao gồm: sắt, mangan, nhôm, đồng, chì, kẽm, vàng đều là kim loại quý. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên của Lạng Sơn lại nghèo các kim loại hiếm, mới chỉ có thiếc. môlíp và thuỷ ngân. Khoáng sản phi kim loại có than nâu ở mỏ Na Dương với diện tích 150 km; than bùn ở Nà Lò ( Lộc Bình ) và một điểm cách thị trấn Bình Gia 1km về phía Đông Nam. Nguồn khoáng sản phục vụ cho ngành sản xuất vật liệu xây dựng, bao gồm: các loại đá cacbonat, đá sét, cát cuội, sỏi, cát kết dạng quaczic, sét vôi, đá mafic chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn tài nguyên Lạng Sơn.
    Với lợi thế sẵn có của thiên nhiên về tài nguyên thiên nhiên, nguồn nguyên liệu dồi dào phong phú đa dạng cho công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng là một trong những thế mạnh thúc đẩy nền công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng phát triển thành ngành công nghiệp đi đầu của Tỉnh. Đến năm 2008, tỉnh có 2 nhà máy xi măng công suất 8,5 vạn tấn/ năm và 6,5 vạn tấn/năm; hai cơ sở sản xuất gạch nung quốc doanh công suất 45 triệu viên/năm; một liên doanh sản suất gốm sứ; sản lượng đá xây dựng khai thác trên 700 nghìn m3/năm. Với tiềm năng hiện có, sản xuất vật liệu xây dựng đang là hướng ưu tiên đầu tư phát triển của ngành công nghiệp Lạng Sơn. Dự án xây dựng nhà máy xi măng lò quay công suất 1,4 triệu tấn/năm tại Đồng Bành – Chi Lăng đang được tích cực triển khai
    Về công nghiệp khai khoáng, Lạng Sơn có nhiều tài nguyên khoáng sản chưa được tập trung khai thác. Toàn tỉnh có 86 điểm mỏ quặng, khoáng thuộc 19 khoáng sản khác nhau. Đáng chú ý là mỏ than Na Dương, huyện Lộc Bình, trữ lượng khoảng 98,7 triệu tấn, đang được khai thác phục vụ cho nhà máy Nhiệt điện Na Dương, công suất 100MW.
     
Đang tải...