Chuyên Đề Đào tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở tỉnh DăkLăk

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Đào tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số ở tỉnh DăkLăk

    MỞ ĐẦU

    1. Tính cấp thiết của đề tài.
    Cấp xă là một cấp trong hệ thống chính quyền các cấp ở nước ta; bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống chính trị ở cơ sở. Năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp xă tác động trực tiếp đến việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần bảo đảm cho sự ổn định và phát triển của đất nước. Chính quyền cấp xă không thể đảm nhận được vai tṛ nếu thiếu nhân tố có ư nghĩa quyết định đó là đội ngũ CBCC chính quyền cấp xă.
    Đội ngũ CBCC cấp xă có vai tṛ rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, phát triển kinh tế - xă hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. Ở những vùng dân tộc và miền núi, đội ngũ CBCC cấp xă người DTTS có vai tṛ hết sức quan trọng, có ư nghĩa đặc biệt trong t́nh h́nh hiện nay.
    V́ vậy, Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dưỡng CBCC và công tác tạo nguồn CBCC người DTTS.
    Hội nghị Trung ương 5 khóa IX đă ra Nghị quyết về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở xă, phường, thị trấn. Nghị quyết đă xác định xây dựng đội ngũ CBCC chính quyền cấp xă là một trong những vấn đề cơ bản nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở.
    Văn kiện Hội nghị 7, Ban chấp hành Trung ương khóa IX đặt ra mục tiêu cụ thể về phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống đồng bào các dân tộc. “Xây dựng đội ngũ cán bộ DTTS tại chỗ có phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu cầu của địa phương, củng cố hệ thống chính trị cơ sở trong sạch, vững mạnh”.
    Đào tạo nguồn cán bộ công chức là một trong những nội dung cơ bản có ư nghĩa quyết định đối với sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ có tŕnh độ, năng lực, phẩm chất đạo đức tốt đáp ứng yêu cầu đổi mới cơ chế quản lư, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xă hội chủ nghĩa hiện nay.
    Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong thời gian qua các địa phương của cả nước đă triển khai thực hiện Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg ngày 15/02/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức 2006 – 2010 và Quyết định số 34/2006/QĐ-TTg ngày 8/02/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức xă, phường, thị trấn người DTTS giai đoạn 2006-2010.
    Do vậy, công tác đào tạo CBCC trong đó có đào tạo nguồn đă có những chuyển biến tích cực và đạt được những kết quả quan trọng, công tác đào tạo dần đi vào nền nếp, nội dung, h́nh thức, phương pháp đào tạo có nhiều đổi mới, bổ sung và hoàn thiện phù hợp với yêu cầu thực tiễn, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
    Tuy nhiên, vẫn c̣n những bất cập trong công tác đào tạo CBCC cấp xă nói chung và đào tạo nguồn CBCC cấp xă người DTTS nói riêng. “Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa gắn với yêu cầu, tiêu chuẩn và quy hoạch sử dụng cán bộ. Chất lượng và hiệu quả c̣n thấp. Nội dung chương tŕnh và phương pháp đào tạo, cán bộ chậm đổi mới, chưa gắn với tổng kết thực tiễn của công cuộc đổi mới” [ 23 ,tr.71]
    Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7, Đảng CSVN khóa IX đánh giá: “Nh́n chung, đội ngũ cán bộ lănh đạo và quản lư ở vùng dân tộc và miền núi c̣n thiếu về số lượng, yếu về năng lực tổ chức, chỉ đạo thực hiện; công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người DTTS chưa được quan tâm” [ 25, tr34].
    Trước thực trạng trên, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng CSVN đă đề ra: “củng cố và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở vùng đồng bào DTTS; động viên, phát huy vai tṛ của những người tiêu biểu trong các dân tộc. Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức là người DTTS [28, tr122].
    ĐăkLăk là một tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên, gồm 44 dân tộc khác nhau, trong đó DTTS chiếm 29,5%. Dân tộc Ê-đê, M’nông là hai dân tộc bản địa chiếm tỷ lệ cao trong các dân tộc. Đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ DTTS cấp xă ở DăkLăk đă có nhiều đóng góp, trưởng thành trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thực sự là ṇng cốt hướng dẫn đồng bào các dân tộc xóa đói giảm nghèo, tổ chức xây dựng cuộc sống, từng bước tạo ra những tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế - xă hội khu vực Tây Nguyên.
    Từ những quan điểm của Đảng về công tác cán bộ nói chung và cán bộ DTTS cấp xă nói riêng, từ thực trạng đội ngũ cán bộ DTTS cấp xă của Tỉnh, Tỉnh ủy đă thường xuyên quan tâm chỉ đạo các ngành, các cấp coi trọng việc đào tạo nguồn CBCC cấp xă là người DTTS. Tỉnh uỷ chỉ đạo các ban, ngành (Ban Tổ chức Tỉnh uỷ, Sở Nội vụ, Sở Giáo dục - Đào tạo, Trường Chính trị tỉnh, Tỉnh Đoàn ) phối hợp rà soát, lựa chọn, tạo nguồn cán bộ từ lực lượng học sinh, sinh viên, bộ đội của địa phương khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự.
    Tuy nhiên, bên cạnh những việc đă làm, vẫn c̣n những bất cập, hụt hẫng so với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra, cụ thể là:
    Công tác tạo nguồn có cố gắng, song kết quả đạt được c̣n thấp, chưa nắm chắc số học sinh, sinh viên người DTTS đă tốt nghiệp ở các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học nên chưa có quy hoạch một cách hợp lư đối với các chức danh lănh đạo, quản lư, chuyên môn để bảo đảm tỉ lệ cán bộ dân tộc phù hợp với cơ cấu cán bộ của tỉnh.
    Sự bất cập về tŕnh độ học vấn của nguồn cán bộ DTTS dẫn đến hạn chế trong việc đào tạo. Nguồn cán bộ DTTS có cuộc sống và tập quán riêng, tiếng nói và sinh hoạt khác nhau, c̣n một bộ phận nguồn CBCC DTTS chưa tự ḿnh rèn luyện, phấn đấu vươn lên. Một số dân tộc chưa có nguồn CBCC là người của dân tộc ḿnh.
    Chính v́ vậy, việc đào tạo nguồn CBCC cấp xă là người DTTS trên địa bàn tỉnh ĐăkLăk là một việc làm có ư nghĩa thiết thực trong công cuộc xây dựng đội ngũ CBCC người DTTS, góp phần vào việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, v́ nhân dân.
    Xuất phát từ những lư do trên, tác giả chọn đề tài :“Đào tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xă là người dân tộc thiểu số ở tỉnh DăkLăk ”để nghiên cứu và viết luận văn thạc sĩ.
    2. T́nh h́nh nghiên cứu của đề tài
    Về đào tạo nguồn CBCC nói chung và CBCC là người DTTS nói riêng từ trước đến nay đă được một số nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Các nghiên cứu này tập trung vào một số nhóm vấn đề sau:
    Nhóm nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng CBCC nói chung có một số công tŕnh tiêu biểu như:
    Chiến lược đào tạo cán bộ, Nguyễn Khắc Thái, Nguyễn Trọng Điều.
    Đào tạo, bồi dưỡng công chức hành chính nhà nước tại TP.Hồ Chí Minh theo yêu cầu cải cách nền hành chính ở nước ta hiện nay. (Nguyễn Mạnh B́nh, Luận văn Thạc sĩ Luật học, năm 2001).
    Cơ sở lư luận và thực tiễn của việc xây dựng quy chế đào tạo bồi dưỡng công chức hành chính trong giai đoạn hiện nay, Bộ nội vụ, năm 2003.
    Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng đ̣i hỏi của Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, v́ dân. Bộ Khoa học công nghệ, năm 2003.
    Cơ sở lư luận và thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ công chức. TS Thang Văn Phúc, TS Nguyễn Minh Phương – NXBCTQG, năm 2005.
    Đào tạo, bồi dưỡng công chức hành chính theo yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở quận Cầu Giấy, TP. Hà Nội. (Bùi Doăn Dũng, Luận văn thạc sĩ Luật học, năm 2007).
    Đào tạo, bồi dưỡng công chức hành chính ở tỉnh B́nh Thuận, (Vơ Duy Quư, Luận văn thạc sĩ Luật học, năm 2008)
    Cơ sở lư luận và thực tiễn về đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xă là người dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh. (Nguyễn Văn Thơ, Luận văn thạc sĩ Luật học, năm 2008)
    Nhóm nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đào tạo nguồn CBCC cấp xă có các công tŕnh tiêu biểu sau:
    Đào tạo nguồn cán bộ quản lư hành chính nhà nước cấp xă trên địa bàn TP.Cần Thơ - Thực trạng và giải pháp - Trần Văn Tài, Luận văn Thạc sĩ Luật học, năm 2004.
    Trong luận văn này, tác giả đă làm rơ cơ sở lư luận về đào tạo nguồn cán bộ quản lư hành chính nhà nước cấp xă, đă phân tích, đánh giá được thực trạng và những bất cập của công tác đào tạo nguồn cán bộ quản lư hành chính cấp xă trên địa bàn thành phố Cần Thơ, đă đưa ra được những quan điểm, giải pháp nhằm đào tạo được nguồn cán bộ quản lư hành chính cấp xă trên địa bàn thành phố Cần Thơ.
    Đào tạo nguồn CBCC cấp xă và việc sử dụng sau đào tạo nguồn tại TP. Hồ Chí Minh - Trần Tuấn Duy, Luận văn thạc sĩ Luật học, năm 2008.
    Trong luận văn này, tác giả đă làm rơ những vấn đề lư luận liên quan đến đào tạo nguồn CBCC cấp xă và việc sử dụng CBCC sau đào tạo nguồn; đă nêu rơ và đánh giá thực trạng của việc đào tạo nguồn CBCC cấp xă và việc sử dụng sau đào tạo nguồn tại Thành phố Hồ Chí Minh.
    Các công tŕnh nghiên cứu trên đă đề cập nhiều đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ công chức, góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về lư luận và thực tiễn quan trọng trong công tác đào tạo cán bộ nguồn trong t́nh h́nh mới.
    Đến nay, chưa có một công tŕnh nào nghiên cứu đến vấn đề đào tạo nguồn CBCC cấp xă là người DTTS ở tỉnh DăkLăk. Mặc dù vậy, các công tŕnh khoa học đă được công bố là tài liệu tham khảo có giá trị nghiên cứu và viết luận văn này.

    3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
    - Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu về công tác đào tạo nguồn CBCC cấp xă là người DTTS ở tỉnh DăkLăk hiện nay. Đào tạo nguồn gồm nguồn đưa vào chức danh và nguồn để tuyển dụng.
    - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi không gian tỉnh DăkLăk. Đánh giá thực trạng nguồn CBCC cấp xă là người DTTS của tỉnh và công tác đào tạo nguồn CBCC cấp xă là người DTTS trong phạm vi thời gian từ năm 2004 đến nay.
    4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
    - Mục đích:
    Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lư luận về đào tạo nguồn CBCC cấp xă và thực trạng công tác đào tạo nguồn CBCC cấp xă là người DTTS trên địa bàn tỉnh DăkLăk. Luận văn đề xuất những giải pháp cụ thể bảo đảm công tác đào tạo nguồn CBCC cấp xă là người DTTS ở tỉnh Dăklăk hiện nay.
    - Nhiệm vụ:
    Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
    + Phân tích cơ sở lư luận về đào tạo nguồn CBCC cấp xă dựa trên các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của của Đảng và các quy định của Nhà nước ta.
    + Phân tích thực trạng nguồn CBCC cấp xă và công tác đào tạo nguồn CBCC cấp xă là người DTTS ở tỉnh DăkLăk. Trên cơ sở đó rút ra những ưu điểm, hạn chế, t́m ra những nguyên nhân của ưu điểm, hạn chế. Đồng thời rút ra một số bài học kinh nghiệm của công tác đào tạo nguồn CBCC cấp xă là người DTTS ở tỉnh DăkLăk.
    + Đưa ra những quan điểm, giải pháp nhằm đảm bảo công tác đào tạo nguồn cán bộ công chức là người DTTS ở tỉnh DăkLăk hiện nay.

    5. Cơ sở lư luận và phương pháp nghiên cứu:
    - Cơ sở lư luận:
    Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lư luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về đào tạo nguồn CBCC cấp xă nói chung và đào tạo nguồn CBCC là người DTTS nói riêng.
    - Phương pháp nghiên cứu:
    Luận văn được nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin trong đó sử dụng các phương pháp chủ yếu là: Phân tích, tổng hợp, so sánh, kết hợp lư luận với thực tiễn. Tuy nhiên do tính chất của từng chương, từng phần mà có thể sử dụng một trong những phương pháp trên làm chủ đạo. Cụ thể là:
    Trong chương 1, phương pháp sử dụng chủ yếu là phương pháp phân tích tổng hợp; chương 2, chương 3 phương pháp sử dụng chủ yếu là phương pháp kết hợp lư luận với thực tiễn, phương pháp thống kê, so sánh .
    6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn:
    - Góp phần hệ thống hóa các quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng, Nhà nước ta về công tác đào tạo nguồn CBCC cấp xă là người DTTS.
    - Xác định các yêu cầu và điều kiện bảo đảm nhằm đào tạo nguồn CBCC cấp xă là người DTTS đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.
    - Đánh giá đúng thực trạng chất lượng đào tạo nguồn CBCC cấp xă là người DTTS ở tỉnh DăkLăk đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn CBCC cấp xă là người DTTS.
    7. Ư nghĩa thực tiễn của đề tài nghiên cứu:
    Luận văn cung cấp những luận cứ khoa học giúp các nhà làm công tác cán bộ hoạch định chính sách cán bộ, đào tạo nguồn cán bộ và chỉ đạo công tác đào tạo nguồn CBCC cấp xă là người DTTS. Các giải pháp được đưa ra trong luận văn cũng có thể áp dụng nhằm phát triển công tác đào tạo nguồn nhân lực CBCC cấp xă người DTTS ở tỉnh ĐăkLăk nói riêng và vùng Tây Nguyên nói chung. Luận văn cũng có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy và nghiên cứu.
    8. Kết cấu của luận văn:
    Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 3 chương, 11 tiết.




















    CHƯƠNG 1
    CƠ SỞ LƯ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XĂ LÀ NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ

    1.1. Khái niệm, đặc điểm, vai tṛ về đào tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xă là người dân tộc thiểu số.
    1.1.1. Khái niệm về đào tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xă.
    1.1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức cấp xă:
    Tại Điều 1 của Pháp lệnh CBCC 1998 đã quy định như sau: CBCC là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, bao gồm:
    a. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xă hội;
    b. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xă hội;
    c. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước, mỗi ngạch thể hiện chức và cấp về chuyên môn nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn riêng;
    d. Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân;
    e. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc pḥng; làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.
    Điều 1Pháp lệnh CBCC 1998 được sửa đổi, bổ sung năm 2003 quy định:
    “CBCC quy định tại pháp lệnh này là công dân Việt Nam, trong biên chế, bao gồm:
    a. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xă hội ở trung ương; tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh); ở huyện, quận, thị xă, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện);
    b. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xă hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
    c. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện;
    d. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xă hội;
    đ. Thẩm phán toà án nhân dân, kiểm sát viên viện kiểm sát nhân dân;
    e. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc pḥng; làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp.
    g. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân; Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy; người đứng đầu tổ chức chính trị – xă hội xă, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xă);
    h. Những người được tuyển dụng để giao giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban Nhân dân cấp xă”.
    Pháp lệnh CBCC 2003 sửa đổi, bổ sung một số điều Pháp lệnh 1998, tại khoản 1, điều 1 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh thêm các đối tượng gồm những người được bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ (cán bộ chuyên trách cấp xã) và những người được tuyển dụng giao giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã (công chức cấp xã). Mặt khác có sự phân biệt rõ đối tượng công chức ngạch hành chính và ngạch sự nghiệp. Nghị định 117/2003/NĐ-CP ngày 10-10-2003 của Chính phủ về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức, tại điều 2 quy định: Công chức là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước được quy định tại điểm b, điểm c, điểm e khoản 1, Điều 1 của Pháp lệnh CBCC sửa đổi bổ sung năm 2003, làm việc trong cơ quan nhà nước, lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
    Luật CBCC đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năn 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010. Tại Điều 4 quy định:
    1. Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
    2. Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuôc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
    Như vậy, Luật đă tách rơ hai khái niệm ai là cán bộ, ai là công chức. Cán bộ là những người phục vụ trong các cơ quan Đảng, đoàn thể, những người được bầu trong các cấp ủy Đảng, đoàn thể. C̣n những người làm quản lư nhà nước trực tiếp, trong các đơn vị sự nghiệp công là công chức.
    Viên chức làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập không thuộc đối tượng áp dụng của luật này mà được tiếp tục áp dụng trong các quy định hiện hành cho đến khi QH ban hành Luật Viên chức.
    Trên cơ sở Pháp lệnh CBCC sửa đổi bổ sung năm 2003, Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày 10-10-2003 của Chính phủ về CBCC xã, phường, thị trấn đã quy định CBCC cấp xã bao gồm:
    Một là, những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ (gọi chung là cán bộ chuyên trách cấp xã), gồm các chức vụ sau: Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, thường trực Đảng ủy (nơi không có Phó Bí thư chuyên trách công tác Đảng), Bí thư, Phó Bí thư chi bộ (nơi chưa thành lập Đảng ủy cấp xã); Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội dồng nhân dân; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ, Chủ tịch Hội Nông dân và Chủ tịch Hội Cựu chiến binh.
    Hai là, những người được tuyển dụng để giao giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban Nhân dân cấp xã (gọi chung là công chức cấp xã), gồm có các chức danh: Trưởng Công an; Chỉ huy trưởng quân sự; Văn phòng – thống kê; Địa chính – xây dựng; Tài chính – kế toán; Tư pháp – hộ tịch; Văn hóa – xã hội.
    Luật CBCC đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năn 2008, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2010. Tại khoản 3, điều 4 quy định:
    Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng đầu tổ chức chính trị – xã hội;
    Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
    Điều 61 Luật CBCC quy định rõ ràng chức vụ, chức danh CBCC cấp xã. Cán bộ cấp xã có các chức vụ sau:
    a) Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy;
    b) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội dồng nhân dân;
    c) Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân;
    d) Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
    đ) Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
    e) Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam;
    g) Chủ tịch Hội Nông dân Việt Nam (áp dụng đối với xã, phường, thị trấn có hoạt động nông, lâm, ngư, diêm nghiệp và có tổ chức Hội Nông dân Việt Nam).
    h) Chủ tịch Hội Cựu chiến binh Việt Nam
    Công chức cấp xã có các chức danh sau đây:
    a) Trưởng Công an;
    b) Chỉ huy trưởng quân sự;
    c) Văn phòng – thống kê;
    d) Địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường(đối với phường, thị trấn) hoặc địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi trường (đối với xã);
    đ) Tài chính – kế toán;
    e) Tư pháp – hộ tịch;
    g) Văn hóa – xã hội.
    Như vậy, Luật cán bộ,công chức đă làm rơ được các tiêu chí để phân định một cách tương đối cán bộ với công chức. Trong đó, CBCC cấp xă được quy định cụ thể theo chức vụ bầu cử và chức danh chuyên môn để khắc phục xu hướng “hành chính hóa” và “ph́nh” biên chế ở cơ sở. Tuy nhiên, để phù hợp với t́nh h́nh thực tiễn và điều kiện kinh tế - xă hội, quy mô, đặc điểm của địa phương, Quốc Hội giao cho Chính phủ quy định cụ thể số lượng CBCC cấp xă trên cơ sở các chức vụ, chức danh do Luật quy định (Điều 61)
    Bên cạnh những điểm chung là cơ bản, mỗi nhóm CBCC c̣n có những nét riêng, chịu ảnh hưởng bởi đặc điểm, tính chất hoạt động, thực thi công vụ của từng lĩnh vực công tác, v́ vậy Luật đă quy định riêng 3 chương (chương III cho cán bộ, chương IV cho công chức và chương V cho CBCC cấp xă) để có những quy định phù hợp với từng nhóm đối tượng cụ thể.
    1.1.1.2. Khái niệm đào tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xă là người dân tộc thiểu số.
    Theo Đại Từ điển tiếng Việt th́ “đào tạo” là dạy dỗ, rèn luyện để trở nên người có hiểu biết, có nghề nghiệp [55, tr. 593].
    Đào tạo c̣n được hiểu là quá tŕnh tác động đến con người, làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định, góp phần của ḿnh vào việc phát triển xă hội, duy tŕ và khai hóa nền văn minh của loài người.
    Như vậy, đào tạo được xác định như là quá tŕnh làm biến đổi hành vi con người một cách có hệ thống thông qua việc học tập, việc học tập này có được là kết quả của việc giáo dục, hướng dẫn, phát triển và lĩnh hội kinh nghiệm một cách có kế hoạch. Trong thực tế, chúng ta thường sử dụng các thuật ngữ như: đào tạo nghề, đào tạo cán bộ, công chức
    Nội dung đào tạo thường là trang bị những kiến thức cơ bản hoặc cao hơn. Thời gian đào tạo thường dài ngày. Kết thúc khóa đào tạo, người học được cấp bằng tương ứng với tŕnh độ, chương tŕnh đă đào tạo.
    Như vậy, đào tạo CBCC có thể được hiểu đó tất cả các hoạt động giáo dục, đào tạo để h́nh thành nguồn CBCC cho tương lai, chuẩn bị nguồn khi họ đang c̣n ngồi trên ghế nhà trường, chưa trở thành CBCC và hoạt động đào tạo đội ngũ CBCC nhằm trang bị, bổ sung những kiến thức cần thiết cho họ.
    Từ quan niệm đào tạo CBCC nêu trên, để hiểu như thế nào là đào tạo nguồn CBCC cấp xă cần phải xác định nguồn CBCC là ǵ.
    Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì “nguồn” được hiểu theo hai nghĩa:
    Thứ nhất, “nguồn” được hiểu là “nơi bắt đầu của sông, suối”.
    Thứ hai, “nguồn” là nơi phát sinh, tạo ra hoặc cung cấp cái ǵ [55, tr 1215].
    Qua hai cách hiểu trên th́ cách hiểu thứ hai là phù hợp với việc xây dựng khái niệm đào tạo nguồn CBCC cấp xă. Từ đó ta có thể hiểu:
    Nguồn CBCC cấp xă là những người được đào tạo, có phẩm chất, tŕnh độ và năng lực, có khả năng đảm nhiệm được công việc, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
    Nguồn CBCC cấp xă là người DTTS là những người được đào tạo, có phẩm chất, tŕnh độ và năng lực chuyên môn, có khả năng đảm nhiệm được công việc, là lực lượng dự bị rất quan trọng để bổ sung, thay thế trong tương lai.
    Nguồn CBCC cấp xă có hai loại:
    - Nguồn để đưa vào chức vụ, chức danh bao gồm:
    + Nguồn kế cận trực tiếp: là lực lượng dự bị sát sườn đang ở vị trí cấp dưới trực tiếp của các chức danh CBCC đương nhiệm. Nếu CBCC đó là cấp trưởng th́ nguồn CBCC kế cận trực tiếp là cấp phó hoặc là cấp trưởng cấp dưới trực tiếp (ở cấp xă, cấp dưới trực tiếp liền kề có thể xem là các tổ dân phố, khu phố, ấp ). Một chức danh CBCC cấp trưởng có thể có nhiều cấp phó và nhiều chức danh trưởng cấp dưới trực tiếp. Loại nguồn kế cận này phải được chuẩn bị khẩn trương, phải được đào tạo để đạt các tiêu chuẩn để khi cần có thể sử dụng để thay thế ngay.
    + Nguồn kế cận tiếp theo: là lực lượng dự bị rộng hơn. Một chức danh CBCC cấp xă cần có nhiều đối tượng dự bị và một đối tượng dự bị có thể dự bị cho nhiều chức danh. Đây là lực lượng dự trữ có sự ổn định tương đối, nó được xem xét đánh giá và bổ sung, thay thế hàng năm.
    - Nguồn để tuyển dụng:
    Là nguồn phải qua nhiều bước, hay nhiều công đoạn, nhiều thời gian th́ mới có thể bố trí công việc. Loại nguồn này rộng và trẻ tuổi, v́ thế yêu cầu đặt ra với họ là phải được đào tạo một cách bài bản.
    Từ những phân tích trên, có thể hiểu:
    Đào tạo nguồn CBCC cấp xă là hoạt động nhằm tạo ra những con người có hiểu biết, có nghề nghiệp để bổ sung, thay thế và thực hiện công việc.
    Đào tạo nguồn CBCC cấp xă là người DTTS là quá tŕnh tác động đến con người cụ thể, làm cho người đó có phẩm chất, tŕnh độ và năng lực chuyên môn nhằm chuẩn bị bổ sung, thay thế cho cấp xă những CBCC trong tương lai, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền xă hội chủ nghĩa Việt Nam.
    Như vậy, đào tạo nguồn là rất cần thiết để tạo ra những con người có phẩm chất, trình độ cao nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Những người được đào tạo nguồn sẽ là nguồn dự bị rất quan trọng để bổ sung, thay thế trong tương lai.
    Tuy nhiên, từ trước đến nay chưa có một văn bản quy phạm pháp luật nào định nghĩa, giải thích hay đưa ra một khái niệm hoàn chỉnh về “đào tạo nguồn”, cũng như khái niệm đào tạo nguồn CBCC và đào tạo nguồn CBCC cấp xã. Mặc dù vậy, trong công tác cán bộ đã có những hoạt động đào tạo nguồn nhằm tạo ra một đội ngũ CBCC kế cận để dần thay thế những thế hệ trước. Hoạt động đó được xem là “tạo nguồn” cán bộ, công chức.
    Điều 25 – Pháp lệnh CBCC quy định: “Cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quản lư CBCC có trách nhiệm xây dựng quy hoạch, kế hoạch và tổ chức việc đào tạo, bồi dưỡng để tạo nguồn và nâng cao tŕnh độ, năng lực của CBCC”.
    Tạo nguồn CBCC là hoạt động của các cấp, các ngành và các thành phần xă hội với nhiều cách thức, biện pháp khác nhau nhằm tạo ra một đội ngũ CBCC kế cận có đủ tŕnh độ, năng lực, phẩm chất đạo đức, chính trị để đảm đương những trọng trách trong thời gian tới.
    1.1.2. Đặc điểm của đào tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xă là người dân tộc thiểu số:
    Qua những phân tích trên, có thể thấy đào tạo nguồn CBCC cấp xã có những đặc điểm cơ bản sau:
    Một là, đào tạo nguồn CBCC cấp xă là người DTTS nhằm chuẩn bị cung cấp cho cấp xã đội ngũ CBCC trong tương lai.
    Đây là một hình thức đào tạo khác với các hình thức đào tạo tiền công vụ hay đào tạo tại chức khác. Bởi vì đào tạo tại chức là cách thức đào tạo chuyên sâu đối với CBCC đã được bầu cử hay bổ nhiệm giữ một chức vụ nào đó trong một cơ quan nhưng chưa được đào tạo.
    Đào tạo tiền công vụ là hình thức đào tạo được áp dụng đối với công chức dự bị đã được tuyển dụng nhưng chưa được bổ nhiệm chính thức. Đào tạo nguồn CBCC cấp xã ở đây có đối tượng đào tạo rộng hơn so với hình thức đào tạo tại chức và đào tạo tiền công vụ. Ngoài ra còn có cả các đối tượng là học sinh, sinh viên, bộ đội xuất ngũ và được phân chia thành các lớp đào tạo riêng.
    Hai là, đây là quá trình đào tạo căn cứ vào mục tiêu, quy hoạch CBCC cấp xă người DTTS.
    Hoạt động đào tạo nguồn CBCC cấp xă người DTTS không thể tách rời các mục tiêu đă được Nhà nước đề ra nhằm xây dựng một đội ngũ CBCC cấp xă người DTTS kế cận có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất và năng lực, đảm bảo về cơ cấu dân tộc, tính kế thừa giữa các thế hệ. Bên cạnh đó, quá tŕnh đào tạo cũng phải dựa vào quy hoạch CBCC cho từng nhiệm kỳ, từng thời kỳ bảo đảm cho việc sử dụng đội ngũ này sau đào tạo nguồn, tránh sự hụt hẫng trong công tác đào tạo và sử dụng CBCC cấp xă người DTTS.
    Ba là, là quá trình đào tạo mà trong đó cả chủ thể đào tạo và đối tượng đào tạo khá rộng, không giống như những hình thức đào tạo khác bởi tính chất đa ngành, đa lĩnh vực.
    Đào tạo nguồn BCC được thực hiện bởi nhiều chủ thể khác nhau, đó là các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xă hội, các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp Riêng đối với đào tạo nguồn CBCC cấp xă người DTTS c̣n có các chủ thể như các trường dân tộc nội trú ở Trung ương và địa phương. Đối tượng đào tạo khá phong phú, không chỉ là những người đă và đang công tác được đào tạo để đưa vào các chức danh mà c̣n có các đối tượng như học sinh, sinh viên, những người đă hoàn thành nghĩa vụ trong các lực lượng vũ trang, con em trong các gia đ́nh liệt sĩ, có công với cách mạng để tuyển dụng.
    Bốn là, quá trình đào tạo kết hợp trang bị kiến thức và giáo dục phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, kiến thức khoa học, các kỹ năng. Đây là quá trình đào tạo có nội dung đào tạo không hoàn toàn giống như nội dung đào tạo mà các cơ sở đào tạo hiện đang thực hiện, nó không chỉ đơn thuần là đào tạo kiến thức cơ bản ở các lĩnh vực, ngành khác có liên quan đến hoạt động của CBCC cấp xã mà c̣n có kiến thức bổ trợ để xử lý tình huống, rèn luyện kỹ năng, tu dưỡng phẩm chất chính trị và đạo đức, mỗi loại đối tượng có nội dung, chương trình riêng để đào tạo.
    1.2. Mục tiêu, nội dung, h́nh thức, phương pháp của việc đào tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã là người dân tộc thiểu số.
    1.2.1. Mục tiêu đào tạo:
    Mục tiêu đào tạo là những dự kiến về kết quả của quá trình đào tạo trong một thời gian nhất định. Mục tiêu đào tạo có ý nghĩa chỉ đạo, định hướng cho quá trình hoạt động đào tạo. Chất lượng đào tạo phụ thuộc vào mục tiêu. Mục tiêu đào tạo CBCC cấp xã nói chung được thể hiện ở Quyết định 03/2004/QĐ-TTg ngày 07 tháng 01 năm 2004 phê duyệt định hướng quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng CBCC cấp xă đến năm 2010 là: “Xây dựng, chuẩn hóa và từng bước trẻ hóa đội ngũ CBCC cấp xă, đặc biệt là cán bộ chủ chốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất và năng lực, bảo đảm đủ về số lượng, tiêu chuẩn, đồng bộ về cơ cấu, tŕnh độ, tính kế thừa giữa các thế hệ nhằm đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xă, phường, thị trấn”.
    Quyết định số 40/2006/QĐ-TTg ngày 15 tháng 02 năm 2006 về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CBCC giai đoạn 2006 – 2010 đă đưa ra các mục tiêu cụ thể đối với CBCC cấp xă như sau:
    “Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng trang bị tŕnh độ lư luận chính trị, kiến thức quản lư nhà nước và tŕnh độ chuyên môn theo tiêu chuẩn quy định cho cán bộ chuyên trách;
    Đào tạo, bồi dưỡng theo chức danh cho chủ tịch Hội đồng nhân dân và Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xă;
     
Đang tải...