Tiểu Luận Đạo Nhân – triết lý quản lý của Khổng Tử

Thảo luận trong 'Dân Tộc Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    A - Phần mở đầu:


    Đất nước Việt Nam đã chuyển mình, cơ hội đã mở ra. Công cuộc đổi mới và hội nhập đã được chứng minh là đúng đắn. Một quốc gia sẽ không đứng vững nếu bị cô lập hoặc chỉ bó hẹp trong khuôn khổ ngoại giao một chiều. Ngày nay, một xã hội, một đất nước được coi là phát triển không thể thiếu chiến lược ngoại giao đa phương, thiết lập quan hệ bang giao với nhiều nước, nhiều khu vực để thông thương, giao lưu văn hóa, chính trị, trên quan điểm hòa nhập chứ không hòa tan và luôn phát huy đậm đà bản sắc dân tộc. Để làm được điều đó, vai trò của người quản lý là không thể thiếu. Đặc biệt vận dụng những tư tưởng quản lý trong lịch sử là một phương pháp để nhà quản lý thành công, Đạo Nhân của Khổng Tử là một triết lý như thế.
    B - Nội dung


    I. Khái lược về Khổng Tử và đạo Nhân.


    Khổng Tử (551-479TCN): tên chữ Trọng Ni, sinh ở Khúc Phụ nước Lỗ. Tổ tiên là quý tộc nước Tống (hậu duệ nhà Ân), cha làm quan nước Trâu. Đến thời Khổng Tử, gia đình sa sút. Ông ham học, thích nghiên cứu thi, thư, lễ, nhạc đời trước. Lúc trẻ làm quan coi kho và quan coi súc vật cho Quý Thị (một quan khanh nước Lỗ) sau làm Đại tư khấu rồi làm Nhiếp tướng sự trong 3 tháng, lúc 54 tuổi. Nhưng tư tưởng của Khổng Tử không hợp với Quý Thị nên Khổng Tử bỏ đi chu du qua các nước chư hầu (Vệ, Tống, Trần, ). Đường lối của ông không được các nước này dụng. Đến 70 tuổi trở về, nước Lỗ coi như bậc quốc lão, nhưng ông không ra làm quan. Hoạt động của ông là dạy học, là người đầu tiên mở nền tư học. Học trò của ông đông, có tới ba ngàn người, trong đó có tới 72 người nổi tiếng còn được thờ cùng Khổng Tử.

    Trong trường Khổng Tử dạy: văn, hạnh, trung, tín. Học trò được chia thành bốn loại: đức hạnh, chính sự, văn học, ngôn ngữ. Do nhu cầu dạy học, Khổng Tử chỉnh đốn các sách thi, thư, lễ, nhạc là những điển sách trước đó chỉ lưu hành trong công tộc và đem dạy ra ngoài.
    Khổng Tử sống trong thời kì lịch sử loạn của đất nước Trung Hoa khi mà “ Cha không ra cha, con không ra con, vua không ra vua, tôi không ra tôi”. Trong xã hội loạn lạc đó Khổng Tử vẫn cho rằng bản tính của người là thiện. Sống gần nhau, muốn giúp đỡ nhau “tính tương cận dã, tương viễn dã”. Xuất phát từ quan điểm đó với mục tiêu là đưa tất cả mọi người đến một xã hội tốt đẹp lấy đạo đức làm cơ sở, Khổng Tử đã xây dựng nên thuyết “ Đức trị” và cái “cốt” lý luận để xây dựng xã hội trên chính là đạo Nho – đạo Nhân của Khổng Tử. Vì vậy tất cả các vấn đề về chính trị, giáo dục hay đạo đức thì Khổng Tử đều xuất phát từ vấn đề Nhân.


    II. Đạo nhân và mối quan hệ với các đạo khác


    1. Về đạo Nhân:


    a. Khái niệm Nhân.


    Theo Khổng Tử “Nhân là yêu người”. Nhân là giúp đỡ người khác thành công “ Người nhân, mình muốn thành công thì cũng giúp người thành công”. Biết từ bụng ta suy ra bụng người đó là phương pháp thực hành của người Nhân”. Trong các phạm trù lý luận cơ bản của Khổng Tử gồm nhân, lễ, trí thì nhân là quan trọng nhất.
    Theo góc độ quản lý, Nhân là nguyên tắc cơ bản của hoạt động


    quản lý, vừa là đạo đức và hành vi của các chủ thể quản lý.


    “Nhân" được ông coi là cái quy định bản tính con người thông qua


    "lễ", "nghĩa", quy định quan hệ giữa người và người từ trong gia tộc đến

    ngoài xã hội. "Nhân" có quan hệ chặt chẽ với các phạm trù đạo đức khác trong triết lý Khổng Tử để làm nên một hệ thống triết lý nhất quán, chặt chẽ và do vậy, đã có người cho rằng, nếu coi các phạm trù đạo đức trong triết học Khổng Tử như những vòng tròn đồng tâm thì "Nhân" là tâm điểm, bởi nó đã chỉ ra cái bản chất nhất trong bản tính con người


    b. Quan niệm về Nhân trong triết học Trung Hoa và Khổng Tử




    Nhân- Khái niệm bao trùm các quan niệm đạo đức khác




    Trong bối cảnh xã hội loạn lạc, Khổng tử cho rằng dân cần điều nhân hơn cả cần cứu khỏi hỏa tai, nước lũ, nghĩa là điều nhân phải thực hiên từ trên xuống dưới. Nhân là một thuộc tính quan trọng của người quân tử, quân tử không có đức nhân thì không còn là người quân tử nữa. Vì thế khi đánh giá về mặt đạo đức của con người Khổng Tử cho rằng, quân tử có lúc không “nhân” nhưng tiểu nhân thì không bao giờ “nhân” cả. Bởi lẽ, tiểu nhân trong quan niệm của Đức Khổng, đó không chỉ là thứ dân trong mối quan hệ với tầng lớp thống trị mà đó còn là những kẻ không có nhân cách, vô đạo đức. Nhân bao gồm: Đức , Trí , Dũng , Thành , Mẫn , Tuệ . Để thực hành điều nhân, người quân tử phải hội tụ đủ những yếu tố đó. Người làm điều nhân phải cung khiêm, trung tín, thận hành, cẩn ngôn. Công phu ấy có được phải qua tu dưỡng và có tính chất hướng nội, không lo buồn, chủ tĩnh, an bần lạc đạo.


    Nhân là trung thứ và hiếu đễ là gốc của nhân




    Thi hành nhân tức là trọng kẻ khác. Đó là phương diện tích cực trong thi hành mà Khổng tử gọi là “Trung ” hay tính ngay thẳng đối với kẻ khác và chính bản thân mình, gọi là “thứ” hay lòng vị tha. Trung thứ

    là nguyên lý quán xuyến, đạt đạo của đức Khổng và là cái quan trọng


    suốt đời ngài tuân theo.




    Trong một cuộc nói chuyện với các học trò Khổng Tử đã nói: Đạo của ta chỉ có một lẽ mà thông suốt cả. Về điều này, Tăng Tử - một học trò của Khổng Tử cho rằng, Đạo của Khổng Tử là "trung thứ". "Trung" ở đây là làm hết sức mình, còn "thứ" là suy từ lòng mình ra mà biết lòng người, mình không muốn điều gì thì người cũng không muốn điều đó. "Trung thứ" là sống đúng với mình và mang cái đó ứng xử tốt với người.


    Trung thứ, đối với Khổng tử phải được xác lập trên sự phân biệt giữa nhân và kỷ , tức là kẻ khác và ta. Đó là mối quan hệ bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và được quy định bởi Lễ.


    Lấy hiếu làm gốc cho nhân, là lấy tôn tộc làm cơ sở cho xã hội, nhằm mục đích chính trị rõ rệt. “Quân tử hết lòng với cha mẹ thì dân theo điều nhân . Đối với Khổng tử, khái niệm Hiếu là một hình thức đặc thù, một biểu hiện cao đẹp của khái niệm nhân. Dân hiếu ít sinh loạn, con hiếu ít sinh tệ, hiếu đễ làm cho con người được phân biệt với cầm thú, xã hội an định, gia đạo hài hòa, thúc đẩy con người vươn đến điều nhân. Tuy nhiên, lấy hiếu để giáo dục dân, khiến dân tuân theo và dễ cai trị là một quan điểm chính trị khá phiến diện của Khổng tử, song xét về mặt xã hội thì những ưu điểm của hiếu đã vượt ra khỏi bản thân nó, làm cho con người biết tiết dục, kính thiên, tôn quân, thủ lễ, sự phụ mẫu.


    Khắc kỷ phục lễ vi nhân”




    Trong quan niệm giáo dục của Khổng tử, tuy theo từng cá tính mà ông có những phương pháp giáo huấn thích hợp. Song vượt lên trên tất

    cả, để thiên hạ được ổn định, được chính danh, được theo mệnh, theo Khổng tử phải trở về với Lễ và đó chính là nhân. Nhân phải được ước thúc, quy định bởi lễ. Theo Khổng tử, lễ đặt con người vào quan hệ tôn tộc theo thứ bậc, đặt con người vào quan hệ đẳng cấp. Lễ là con đường, là mục đích vươn đến và khả năng hiện thực hóa điều nhân, đưa xã hội từ xã hội Tiểu Khang vươn đến xã hội Đại Đồng .
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...