Tiểu Luận đạo đức kinh doanh tại việt nam - thực tại và giải pháp

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    1. Giới thiệu chung
    1.1 Khái niệm về đạo đức kinh doanh

    Nghiên cứu về đạo đức là một truyền thống lâu đời trong xã hội loài người, bắt
    nguồn từ những niềm tin về tôn giáo, văn hóa và tư tưởng triết học. Đạo đức liên quan tới
    những cam kết về luân lý, trách nhiệm và công bằng xã hội. Đạo đức trong tiếng Anh là
    ethics, từ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp ethiko và ethos, nghĩa là phong tục hoặc tập quán.
    Như Aristoteles đã nói, khái niệm trên bao gồm ý tưởng cả về tính chất và cách áp dụng. Vì
    vậy, đạo đức phản ánh tính cách của cá nhân và trong thời đại ngày nay thì có thể nói lên cả
    tính chất của một doanh nghiệp, vì doanh nghiệp chính là tập hợp của các cá nhân.
    Đạo đức kinh doanh là một khái niệm không cũ mà cũng không mới. Với tư cách là
    một khía cạnh luân lý trong hoạt động thương mại, đạo đức kinh doanh đã lâu đời như chính
    thương mại vậy. Trong bộ luật Hammurabi từ khoảng 1700 TCN, đã có quy định về giá cả,
    thuế quan, cách thức hoạt động thương mại và cả hình phạt hà khắc cho những kẻ không tuân
    thủ. Đó có thể được coi là bằng chứng cho sự nỗ lực đầu tiên của xã hội loài người để phân
    định ranh giới đạo đức cho các hoạt động kinh doanh. Trong tác phẩm “Politics” (ra đời vào
    khoảng năm 300 TCN), Aristoteles đã chỉ ra rõ ràng những mối liên hệ thương mại khi bàn về
    quản lý gia đình. Giáo lý của cả đạo Do Thái và Thiên Chúa giáo, ví dụ như trong Talmud
    (năm 200 sau Công nguyên) và Mười điều răn (Exodus 20:2 - 17; Deuteronomy 5:6 - 21), đều
    đã đưa ra những quy tắc đạo đức được áp dụng trong hoạt động thương mại.
    Tuy nhiên, với tư cách là một khái niệm mang tính hàn lâm, đạo đức kinh doanh
    cũng mới chỉ tồn tại được khoảng bốn chục năm trở lại đây. Nhà nghiên cứu đạo đức kinh
    doanh nổi tiếng Norman Bowie là người đầu tiên đã đưa ra khái niệm này trong một Hội
    nghị Khoa học vào năm 19741
    . Kể từ đó, đạo đức kinh doanh đã trở thành một chủ đề phổ
    biến trong các cuộc tranh luận của các lãnh đạo trong giới kinh doanh, người lao động, các
    cổ đông, người tiêu dùng cũng như các giáo sư đại học ở Mỹ, và từ đó lan ra toàn thế giới.
    Tuy nhiên, không phải tất cả những nhà nghiên cứu, các tác giả và diễn giả đều có chung
    quan điểm về đạo đức kinh doanh. Trước hết, giữa kinh doanh và đạo đức luôn có sự mâu
    thuẫn. Một mặt, xã hội luôn mong muốn các công ty tạo ra nhiều việc làm lương cao, nhưng
    mặt khác, những công ty này lại mong muốn giảm bớt chi phí và nâng cao năng suất lao
    động. Người tiêu dùng luôn mong muốn mua hàng với giá thấp nhất còn các cơ sở thương
    mại lại muốn có lãi suất cao nhất. Xã hội mong muốn giảm ô nhiễm môi trường, còn các
    công ty lại muốn giảm tối đa chi phí phát sinh khi tuân thủ các quy định về bảo vệ môi
    trường trong hoạt động sản xuất của họ. Chính từ đó đã nảy sinh xung đột không thể tránh
    khỏi trong quan niệm về đạo đức kinh doanh, do khác biệt về lợi ích của công ty với lợi ích
    của người lao động, người tiêu dùng và toàn thể xã hội. Vì tất cả những điều đối lập nói trên
    là tất yếu nên các nhà quản lý buộc phải làm sao để cân bằng lợi ích của công ty với lợi ích
    của các cổ đông (shareholders) và những người có quyền lợi liên quan (stakeholders), bao
    gồm nhân viên, khách hàng và toàn thể cộng đồng2
    .
    Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đã đưa ra rất nhiều khái niệm về đạo đức kinh
    doanh, trong đó khái niệm sau có thể được coi là đơn giản nhất: Đạo đức kinh doanh là
    những nguyên tắc được chấp nhận để phân định đúng sai, nhằm điều chỉnh hành vi của các
    nhà kinh doanh3
    . Định nghĩa này khá chung chung, vì thế cũng bỏ qua nhiều nhân tố quan
    trọng, ví dụ như: những loại hành vi nào những nguyên tắc đạo đức có thể điều chỉnh; Hay
    những ai có thể được coi là “nhà kinh doanh” và hành vi của họ cần được điều chỉnh như
    thế nào?
    Ý thức được sự phức tạp của vấn đề, giáo sư Phillip V. Lewis từ trường Đại học
    Abilene Christian, Hoa Kỳ đã tiến hành điều tra và thu thập được 185 định nghĩa được đưa
    ra trong các sách giáo khoa và các bài nghiên cứu từ năm 1961 đến 1981 để tìm ra “đạo đức
    kinh doanh” được định nghĩa ra sao trong các tài liệu nghiên cứuvà trong ý thức của các nhà
    kinh doanh. Sau khi tìm ra những điểm chung của các khái niệm trên, ông tổng hợp lại và
    đưa ra khái niệm về đạo dức kinh doanh như sau:
    “ Đạo đức kinh doanh là tất cả những quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức hoặc
    luật lệ để cung cấp chỉ dẫn về hành vi ứng xử chuẩn mực và sự trung thực (của một tổ chức)
    trong những trường hợp nhất định”4
    .
    Như vậy, theo khái niệm này, đạo đức kinh doanh bao gồm những vấn đề sau:
    Quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực đạo đức hoặc các luật lệ được đưa ra để thực hiện
    nhằm ngăn chặn các hành vi sai nguyên tắc đạo đức.Ví dụ như: Nếu Luật Lao động của một
    quốc gia quy định phụ nữ có quyền ngang với đàn ông trong công việc, sẽ có thể ngăn chặn
    sự phân biệt giới tính của những người thuê lao động khi tuyển dụng.
    Hành vi đúng với đạo đức - hành vi cá nhân phù hợp với lẽ công bằng, luật pháp và
    các tiêu chuẩn khác; hành vi cá nhân phải đúng với thực tiễn, hợp lý và trung thực. Một
    người làm kinh doanh luôn phải lưu ý là mọi người đều phải có trách nhiệm với những hậu
    quả xuất phát từ hành vi của mình. Nghĩa là, người đó không được phép làm bất kỳ điều gì
    có thể khiến hình ảnh của họ bị lung lay.
    Sự trung thực - mỗi câu nói, mỗi hành động của họ đều phải mang tính thực tế hoặc
    thể hiện sự thật. Có thể đưa ra ví dụ, như “Lời mở đầu của những quy tắc trong xã hội của
    các nhà báo chuyên nghiệp” có ghi: “Chúng ta tin vào sự khai sáng xã hội như một người
    tiên phong của công lý, cũng như tin vào vai trò của Hiến pháp trong tìm ra sự thật vì một
    phần quyền lợi của xã hội là được biết sự thật.”
    Điều khó khăn nhất trong nghiên cứu đạo đức nói chung và đạo đức kinh doanh nói
    riêng, chính là xác định cái gì đúng và cái gì sai. Điều được coi là đúng đắn về mặt đạo lý
    với người này có thể không đúng với người khác; những điều hôm nay còn đúng thì mai đã
    thành sai. Lewis đã đặt tên nó là “Trường hợp đặc trưng - những tình huống mà sự lúng
    túng trong suy xét đạo lý cá nhân cần đến phán quyết mang tính đạo đức”. Ví dụ: Hiệp hội
    Y tế Hoa Kỳ thông qua nguyên tắc hoạt động khách quan của họ là “phục vụ nhân loại với
    toàn thể sự tôn trọng phẩm cách con người”. Những bác sĩ điều trị phải quan tâm đến
    “không chỉ cá nhân người bệnh mà còn đến toàn xã hội”. Như vậy, bất kỳ hành vi nào
    không vì “mục đích nâng cao sức khỏe và hạnh phúc của cá nhân và cộng đồng” sẽ được
    coi là phi đạo đức.
    Ferrels và John Fraedrich có một cách định nghĩa khác về đạo đức kinh doanh: theo
    đó “Đạo đức kinh doanh bao gồm những nguyên tắc cơ bản và tiêu chuẩn điều chỉnh hành
    vi trong thế giới kinh doanh. Tuy nhiên, việc đánh giá một hành vi cụ thể là đúng hay sai,
    phù hợp với đạo đức hay không sẽ được quyết định bởi nhà đầu tư, nhân viên, khách hàng,
    các nhóm có quyền lợi liên quan, hệ thống pháp lý cũng như cộng đồng”5
    .
    Vì định nghĩa này có nhiều phần trùng với định nghĩa của Lewis nhưng lại thể hiện
    rõ ràng hơn những người có liên quan đến đạo đức kinh doanh, nên sẽ được sử dụng trong
    bài viết này. Theo định nghĩa này, đạo đức kinh doanh có rất nhiều điểm chung với sự tuân
    thủ luật pháp, trách nhiệm của doanh nghiệp với xã hội, những vấn đề có liên quan đến
    quyền lợi và nghĩa vụ về mặt đạo lý giữa công ty với cổ đông: như trách nhiệm ủy thác, so
    sánh khái niệm cổ đông (shareholders) với khái niệm người có chung quyền lợi
    (stakeholders) Điều này có nghĩa là đạo đức kinh doanh không chỉ bao gồm việc tuân thủ
    pháp luật mà còn quan tâm đến việc bảo vệ quyền lợi cho những người có liên quan đến
    hoạt động của doanh nghiệp và quyền lợi của cộng đồng.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...