Tiến Sĩ Đánh giá tình trạng sẹo bọng của phẫu thuật cắt bè có ghép màng ối và cắt bè áp Mitomycin C điều trị

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 20/8/15.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
    NĂM 2015
    ĐẶT VẤN ĐỀ
    Glôcôm là một bệnh phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Ở hầu
    hết các nước, glôcôm là nguyên nhân thứ 2 gây mù lòa và cũng là mối đe dọa
    nguy hiểm đối với sức khoẻ cộng đồng. Theo Tổ chức Y tế Thế giới dự tính
    đến năm 2020 có khoảng 80 triệu người mắc bệnh Glôcôm, chiếm 2,86% dân
    số (độ tuổi > 40 tuổi), trong đó có 11,2 triệu người bị mù do bệnh này [1].
    Cho đến nay cắt bè củng giác mạc vẫn là phương pháp phẫu thuật chính
    trong điều trị glôcôm. Trong phẫu thuật này qua lỗ cắt bè ra khoang dưới kết
    mạc, thủy dịch sẽ lưu thông trực tiếp từ hậu phòng ra tiền phòng và tạo thành
    một bọng thấm (sẹo bọng). Để đánh giá kết quả của phẫu thuật cắt bè các tác
    giả căn cứ vào nhãn áp điều chỉnh. Tuy nhiên để tiên lượng lâu dài hình thái
    sẹo bọng rất quan trọng. Một sẹo bọng tốt với dấu hiệu tỏa lan vô mạch chứng
    tỏ thủy dịch lưu thông từ trong nhãn cầu ra ngoài tốt, từ đó cho phép tiên lượng
    mức nhãn áp điều chỉnh. Theo tiến triển tự nhiên, vết mổ liền sẹo. Theo thời
    gian sẹo bọng thấm có thể bị xơ hóa dẫn tới mất chức năng dẫn lưu thủy dịch
    gây tăng nhãn áp thứ phát. Để khắc phục tình trạng này, từ cuối những năm
    80, trên thế giới và Việt Nam đã có nhiều nghiên cứu như cắt bỏ bao Tenon,
    hớt bỏ lớp thượng củng mạc trong phẫu thuật, tiêm cortison dưới kết mạc,
    chất độn bằng collagen hoặc ghép màng ối. Việc sử dụng thuốc chống chuyển
    hóa trong và sau mổ cắt bè cho những trường hợp có nguy cơ cao xơ hóa sẹo
    bọng là phổ biến nhất. Tuy nhiên với khả năng chống xơ rất mạnh, theo thời
    gian chất chống chuyển hóa khiến sẹo bọng trở nên mỏng và vô mạch, dễ bị rò
    vỡ bọng dẫn đến nhiễm trùng sẹo bọng và nhiễm trùng nội nhãn. Theo nghiên
    cứu của Kiyofumi M (1997) 1,1% mắt dùng Mitomycin C (MMC) và 1,3%
    mắt có áp 5 Fluorouralcil (5FU) bị nhiễm trùng sẹo bọng [2]. Những năm gần
    đây ghép màng ối trong phẫu thuật cắt bè củng giác mạc cũng là lựa chọn trong
    nhiều nghiên cứu. Với những đặc tính sinh học ưu việt như khả năng ức chế quá trình tạo xơ, ức chế quá trình tăng sinh mạch máu, chống viêm, kháng
    khuẩn, ức chế miễn dịch và không bị thải loại mảnh ghép, màng ối có tác dụng
    chống tăng sinh xơ hóa sẹo bọng thấm. Năm 2005, khi nghiên cứu ba nhóm
    bệnh nhân phẫu thuật cắt bè, Zheng K kết luận rằng phẫu thuật cắt bè củng giác
    mạc ghép màng ối và phẫu thuật cắt bè củng giác mạc áp MMC có tỷ lệ thành
    công tương đương nhau và cao hơn so với mổ cắt bè củng giác mạc thông
    thường [3]. Tác giả cũng nhận thấy việc dùng màng ối an toàn hơn so với áp
    MMC vì biện pháp này giảm được biến chứng tạo sẹo bọng mỏng, rò sẹo bọng,
    nhãn áp thấp dai dẳng, phù hoàng điểm do nhãn áp thấp. Nhiều nghiên cứu
    cũng đã được tiến hành để so sánh kết quả giữa hai nhóm cắt bè ghép màng ối
    và cắt bè áp MMC. Các tác giả kết luận rằng sử dụng màng ối có thể nâng cao
    tỷ lệ thành công của phẫu thuật, duy trì chức năng bọng thấm lâu dài và giảm
    được biến chứng của sẹo bọng thấm.
    Ngày nay với sự ra đời của các phương tiện chẩn đoán hình ảnh tiên tiến,
    các nhà nghiên cứu có thể khám và đo đạc chính xác cấu trúc bên trong sẹo
    bọng thấm để đánh giá mối liên quan giữa lâm sàng và chức năng của sẹo
    bọng. Nhằm khảo sát sự tiến triển về hình thái của bọng thấm giữa hai
    phương pháp phẫu thuật cắt bè có ghép màng ối và phẫu thuật cắt bè áp
    MMC, chúng tôi tiến hành đề tài “Đánh giá tình trạng sẹo bọng của phẫu
    thuật cắt bè có ghép màng ối và cắt bè áp Mitomycin C điều trị tăng nhãn
    áp tái phát sau mổ lỗ rò” với hai mục tiêu:
    1. Đánh giá tình trạng sẹo bọng của phẫu thuật cắt bè có ghép màng ối và cắt
    bè áp Mitomycin C để điều trị tăng nhãn áp tái phát.
    2. Phân tích mối liên quan giữa nhãn áp và tình trạng sẹo bọng trên OCT của
    hai phương pháp phẫu thuật cắt bè có ghép màng ối và cắt bè áp
    Mitomycin C.
     
Đang tải...