Tiểu Luận Đánh giá tính hợp lý của pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    A. LỜI MỞ ĐẦU​ Vi phạm hành chính cũng như mọi vi phạm pháp luật khác đều là những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến những quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ. Có thể thấy hiện nay những vấn đề vi phạm hành chính về đất đai, về bảo vệ môi trường, các loại thuế . đang là vấn đề cấp thiết, tuy chưa đến mức nguy hiểm là tội phạm nhưng nó đang diễn ra ở khắp mọi nơi, hàng ngày, hàng giờ. Về mặt thực tiễn, do chủ quan, công tác xử lý vi phạm hành chính còn chưa kiên quyết, thiếu nghiêm minh và chưa kịp thời dẫn đến tình trạng coi thường pháp luật, vi phạm pháp luật ngày càng tràn lan, khó kiểm soát. Trong bối cảnh đó, nghiên cứu vi phạm hành chính về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực đời sống có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, góp phần lập lại trật tự kỷ cương, phòng, chống vi phạm, tăng cường quản lý nhà nước. Sau đây em xin đi sâu phân tích vấn đề tuy không mới nhưng vẫn luôn mang tính cấp thiết trong xã hội phát triển ngày nay: “Đánh giá tính hợp lý của pháp luật về các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả.” Do vấn đề nghiên cứu còn nhiều quan điểm khác nhau, bên cạnh đó, quá trình nghiên cứu còn gặp nhiều khó khăn do điều kiện khách quan và trình độ nhận thức chủ quan có hạn, mặc dù em đã cố gắng hết sức, song, bài viết chắc chắn không tránh khỏi những điểm hạn chế và thiếu sót. Bởi vây, em rất mong nhận được những ý kiến góp ý, phê bình quý báu từ phía thầy cô giáo để bài viết hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! B. PHẦN NỘI DUNGI. Một vài khái niệm liên quan: 1.1 Vi phạm hành chính : Khoản 2 Điều 1 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (Pháp lệnh XLVPHC) năm 1995 nêu rõ : “Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính.” Ta có thể định nghĩa: Vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân hay tổ chức thực hiện một cách vô ý hay cố ý, xâm phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật bị xử phạt hành chính. 1.2. Trách nhiệm hành chính: Khi tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, Nhà nước sẽ buộc họ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi nhất định. Vì vậy có thể định nghĩa rằng: Trách nhiệm hành chính là hậu quả pháp lý mà cá nhân tổ chức phải gánh chịu trước nhà nước vì đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Trong đó họ bị các chủ thể có thẩm quyền áp dụng, tước đoạt hoặc hạn chế những quyền và lợi ích mà họ đang hoặc sẽ được hưởng bằng cách áp dụng các quy định được ghi nhận trong phần chế tài của các quy phạm hành chính. 1.3. Xử phạt vi phạm hành chính: Mỗi cá nhân, tổ chức khi vi phạm pháp luật hành chính sẽ bị các chủ thể có thẩm quyền căn cứ theo quy định của pháp luật áp dụng các biện pháp xử phạt hành vi vi phạm đó vì vậy có thể định nghĩa : Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền, căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành, quyết định áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính khác đối với tổ chức cá nhân vi phạm hành chính. II- Các hình thức xử lý vi phạm hành chính 2.1. Các hình phạt chính. 2.1.1. Cảnh cáo: Cảnh cáo được áp dụng đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được người có thẩm quyền quyết định xử phạt bằng văn bản. Hành vi của cá nhân tổ chức thực hiện được văn bản pháp luật quy định là có thể áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo. Việc áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo được quy định tại Điều 8 của Pháp lệnh XLVPHC. Cảnh cáo là hình thức xử phạt chính nhưng chỉ mang tính răn đe, giáo dục đối với các chủ thể vi phạm pháp luật hành chính. Trong xử lý vi phạm hành chính đối tượng bị áp dụng hình thức xử phạt cảnh cáo không bị coi là có án tích và không bị ghi vào lý lịch tư pháp. Tất cả các chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính đều có quyền ra quyết định xử phạt cảnh cáo đối với cá nhân tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật hành chính. (Quy định tại Điều 22 đến Điều 40 Chương IV của Pháp lệnh XLVPHC) 2.1.2. Phạt tiền: Đây là hình thức buộc người vi phạm pháp luật phải nộp một số tiền nào đó để sung vào công quỹ nhà nước khi họ có hành vi vi phạm pháp luật trong những trường hợp pháp luật có quy định hình thức phạt tiền. Đối với vi phạm hành chính, Điều 14 Pháp lệnh XLVPHC nêu rõ: Các cá nhân tổ chức vi phạm hành chính nếu không thuộc trường hợp bị xử phạt cảnh cáo thì bị xử phạt bằng hình thức phạt tiền.
    Nguyên tắc phạt tiền :
    Thứ nhất, khi phạt tiền, mức tiền phạt cụ thể đối với một vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt được quy định đối với hành vi đó.
    Thứ hai, nếu có tình tiết giảm nhẹ thì mức phạt có thể giảm xuống nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung hình phạt. Ngược lại nếu có tình tiết tăng nặng thì không phạt tiền quá mức tối đa của khung hình phạt.
    Thứ ba, người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ bị phạt cảnh cáo không bị phạt tiền.
    Thứ tư, người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vi phạm hành chính thì bị phạt tiền bằng 1/2 mức phạt đối với người đã thành niên nếu họ không có tiền nộp phạt thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải nộp thay.
    Thứ năm, với người thực hiện nhiều hành vi vi phạm thì bị xử phạt đối với từng hành vi và mức phạt tiền chung là mức phạt tổng hợp của các hành vi đó.
    Thứ sáu, cá nhân tổ chức vi phạm bị phạt tiền có thể nộp phạt tại chỗ ( theo thủ tục đơn giản) hoặc nộp phạt tại kho bạc nhà nước theo quy định của pháp luật và được nhận biên lai thu tiền phạt.
    2.1.3. Trục xuất
    Trong xử lý vi phạm hành chính hình thức xử phạt trục xuất là buộc người nước ngoài có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trục xuất được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung trong từng trường hợp cụ thể. - Trục xuất là hình phạt chính khi được áp dụng độc lập hoặc áp dụng cùng với hình thức phạt bổ sung khác như: Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề, tịch thu tang vật, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính. - Trục xuất được áp dụng là hình phạt bổ sung khi áp dụng cùng với các hình phạt chính khác. Thủ tục trục xuất được Chính phủ quy định. Người nước ngoài vi phạm hành chính bị trục xuất theo quy định của Nghị định số 54/2001/NĐ – CP của Chính phủ trong trường hợp Điều ước quốc tế mà Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của nghị định này thì áp dụng quy định của Điều ước quốc tế đó. Nghị định cũng quy định cụ thể về trình tự, thủ tục áp dụng hình thức xử phạt trục xuất; biện pháp quản lý người vi phạm trong thời gian làm thủ tục trục xuất; quyền và nghĩa vụ của người bị áp dụng hình thức xử phạt trục xuất và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong việc tổ chức thi hành hình thức xử phạt trục xuất. 2.2. Các hình phạt bổ sung: 2.2.1. Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Giấy phép, chứng chỉ hành nghề là các loại giấy tờ do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền cấp cho các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật để cho phép tổ chức, cá nhân đó kinh doanh, hoạt động, hành nghề trong một lĩnh vực nhất định hoặc sử dụng một loại công cụ, phương tiện nhất định. Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề là hình thức xử phạt bổ sung, được áp dụng kèm theo hình thức xử phạt chính trong trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm nghiêm trọng quy định sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Giấy phép, chứng chỉ hành nghề quy định tại Điều này không bao gồm giấy đăng ký kinh doanh, các loại chứng chỉ gắn với nhân thân người được cấp không có mục đích cho phép hành nghề. Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề được áp dụng có thời hạn hoặc không thời hạn và được quy định đối với hành vi vi phạm hành chính cụ thể, tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi vi phạm đó. Thời hạn bị tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề và các trường hợp cụ thể bị áp dụng tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề được quy định tại các nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước. Hình thức xử phạt này được áp dụng khi có đủ hai điều kiện sau: Thứ nhất, Có văn bản pháp luật về xử phạt hành chính quy định có thể áp dụng biện pháp này đối với vi phạm hành chính cụ thể nào đó. Thứ hai, Cá nhân tổ chức đã có hành vi trực tiếp vi phạm quy tắc sử dụng giấy phép chứng chỉ hành nghề. Ví dụ, khoản 1 Điều 6Nghị định 34 / 2010 NĐ- CP quy định : Tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe, chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ có thời hạn hoặc không thời hạn được áp dụng đối với người điều khiển phương tiện cơ giới, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông vi phạm nghiêm trọng các quy định của Luật Giao thông đường bộ. Trong thời gian bị tước quyền sử dụng Giấy phép lái xe, chứng chỉ bồi dưỡng kiến thức pháp luật về giao thông đường bộ, người vi phạm không được điều khiển các loại phương tiện (được phép điều khiển) ghi trong Giấy phép lái xe, xe máy chuyên dùng. Trong xử lý vi phạm hành chính không được áp dụng đồng thời biện pháp cảnh cáo với tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Tước quyền sử dụng giấy phép chứng chỉ hành nghề do người có thẩm quyền áp dụng đối với cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật và theo đúng thẩm quyền quản lý. 2.2.2. Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính. Điều 17 Pháp lệnh XLVPHC nêu rõ : “Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính là việc sung vào công quỹ nhà nước vật, tiền, hàng hoá, phương tiện có liên quan trực tiếp đến vi phạm hành chính. Không tịch thu tang vật, phương tiện bị cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính chiếm đoạt, sử dụng trái phép mà trả lại cho chủ sở hữu hoặc người quản lý, người sử dụng hợp pháp.” Những quy định trên nhằm bảo đảm quyền và lợi ích của các chủ thể bị vi phạm hành chính xâm hại, bảo đảm tính nghiêm minh công bằng của pháp luật. Thẩm quyền, thủ tục tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính được pháp luật quy định cụ thể. Đây là một trong những hình phạt bổ sung nên không được áo dụng một cách độc lập mà luôn được áp dụng kèm theo với hình thức xử phạt chính. III. Các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra: Trong nhiều trường hợp ngoài việc áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính, tổ chức cá nhân vi phạm hành chính còn có thể bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra. Các biện pháp khắc phục hậu quả được quy định từ Điều 18 đến Điều 21 của Pháp lệnh XLVPHC. Thứ nhất, buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép. Điều 18 quy định: “Cá nhân, tổ chức phải khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính của mình gây ra hoặc phải tháo dỡ công trình xây dựng trái phép; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm không tự nguyện thực hiện thì bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu mọi chi phí cho việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế.” Ví dụ : Khoản 7 Điều 15 Nghị định 34/2010 NĐ – CP quy định: “Ngoài việc bị phạt tiền, cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 và khoản 6 Điều này còn bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả sau đây: buộc phải dỡ bỏ các công trình xây dựng, biển quảng cáo, di dời cây trồng trái phép, thu dọn vật liệu, chất phế thải, hàng hóa và khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra.” Thứ hai, buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh do vi phạm hành chính gây ra. Điều 19 quy định: “Cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính phải đình chỉ ngay các hành vi vi phạm gây ô nhiễm môi trường, lây lan dịch bệnh và phải thực hiện các biện pháp để khắc phục; nếu cá nhân, tổ chức vi phạm không tự nguyện thực hiện thì bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu mọi chi phí cho việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế.” Ví dụ: Điểm d Khoản 26 Điều 10 Nghị định 81/2006 NĐ – CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường quy định:
    Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do vi phạm hành chính quy định tại Điều này gây ra.
    Thứ ba, buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất hàng hoá, vật phẩm, phương tiện. Điều 20 quy định:Hàng hoá, vật phẩm, phương tiện được đưa vào lãnh thổ Việt Nam, nhập khẩu trái với quy định của pháp luật hoặc hàng tạm nhập tái xuất nhưng không tái xuất theo đúng quy định của pháp luật thì bị buộc đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc buộc tái xuất. Cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu mọi chi phí để thực hiện biện pháp này.” Quy định này nhằm ngăn chặn hành vi buôn bán, xuất nhập khẩu hàng hóa lậu vào Việt Nam . Thứ tư, buộc tiêu huỷ vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi và cây trồng, văn hoá phẩm độc hại. Điều 21 quy định : “Vật phẩm gây hại cho sức khoẻ con người, vật nuôi và cây trồng, văn hoá phẩm độc hại là tang vật vi phạm hành chính phải bị tiêu huỷ. Nếu cá nhân, tổ chức vi phạm không tự nguyện thực hiện thì bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế. Cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu mọi chi phí cho việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế.” Ví dụ : Khoản 8 Điều 18.Nghị định của chính phủ số 126/2005/ NĐ- CP của chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa. “Khoản 8. Các biện pháp khắc phục hậu quả: a) Buộc tái chế hoặc chuyển đổi mục đích sử dụng sản phẩm, hàng hoá đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 1, 2 và khoản 4, 5 của Điều này; b) Buộc tái chế hoặc tiêu huỷ sản phẩm, hàng hoá chất lượng kém có khả năng gây hại sức khoẻ con người, an toàn, vệ sinh và môi trường đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 3, 6 của Điều này. Tổ chức, cá nhân vi phạm phải chịu mọi phí tổn cho việc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả. Ngoài các biện pháp xử phạt vi phạm hành chính ở trên người vi phạm pháp luật hành chính còn bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính khác được quy định tại Điều 22 của Pháp lệnh XLVPHC bao gồm: - Giáo dục tại xã, phường, thị trấn; Điều 23 Pháp lệnh XLVPHC quy định : “Giáo dục tại xã, phường, thị trấn do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) quyết định đối với những người được quy định tại khoản 2 Điều này để giáo dục, quản lý họ tại nơi cư trú. Thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn là từ ba tháng đến sáu tháng. - Đưa vào trường giáo dưỡng; Điều 24 của Pháp lệnh quy định : “Đưa vào trường giáo dưỡng do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) quyết định đối với người chưa thành niên có hành vi vi phạm pháp luật quy định tại khoản 2 Điều này để học văn hoá, giáo dục hướng nghiệp, học nghề, lao động, sinh hoạt dưới sự quản lý, giáo dục của trường.Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng là từ sáu tháng đến hai năm.” - Đưa vào cơ sở giáo dục; Biện pháp xử lý hành chính này được áp dụng đối với những người thực hiện hành vi xâm phạm tài sản của tổ chức trong nước hoặc nước ngoài, tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân, của người nước ngoài, vi phạm trật tự, an toàn xã hội có tính chất thường xuyên nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự, đã bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng không có nơi cư trú nhất định. Điều 25 Pháp lệnh quy định : “Đưa vào cơ sở giáo dục do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật quy định tại khoản 2 Điều này để lao động, học văn hoá, học nghề, sinh hoạt dưới sự quản lý của cơ sở giáo dục. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục là từ sáu tháng đến hai năm.” - Đưa vào cơ sở chữa bệnh; Điều 26 Pháp lệnh XLVPHC quy định : “Đưa vào cơ sở chữa bệnh do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định đối với người có hành vi vi phạm pháp luật quy định tại khoản 2 Điều này để lao động, học văn hoá, học nghề và chữa bệnh dưới sự quản lý của cơ sở chữa bệnh. Cơ sở chữa bệnh phải tổ chức khu vực dành riêng cho người dưới 18 tuổi. Cơ sở chữa bệnh phải thực hiện các biện pháp phòng chống lây nhiễm HIV/AIDS và các bệnh truyền nhiễm khác. Thời hạn áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh đối với người nghiện ma tuý là từ một năm đến hai năm, đối với người bán dâm là từ ba tháng đến mười tám tháng.” - Quản chế hành chính. Điều 27 pháp lệnh XLVPHC quy định : “Quản chế hành chính do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định đối với người có hành vi vi phạm pháp luật phương hại đến an ninh quốc gia nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Người bị quản chế hành chính phải cư trú, làm ăn, sinh sống tại một địa phương nhất định và chịu sự quản lý, giáo dục của chính quyền, nhân dân địa phương. Thời hạn quản chế hành chính là từ sáu tháng đến hai năm.” IV – Đánh giá tính hợp lý của pháp luật về một số hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả. 4.1. Đánh giá về hình phạt chính. 4.1.1. Phạt cảnh cáo. Hình phạt này có mức độ xử phạt tương đối nhẹ chủ yếu là mang tính răn đe và giáo dục đối với các đối tượng vi phạm hành chính. Hình phạt này không có khả năng gây thiệt hại về tài chính hoặc hạn chế nhất định về thể chất của người vi phạm. Với tính chất là sự khiển trách công khai của nhà nước đối với người vi phạm, hình phạt cảnh cáo gây ra những thiệt hại nhất định về mặt tinh thần. Tuy nhiên, hình phạt cảnh cáo chưa có giá trị đích thực, hiệu nghiệm, đủ sức răn đe cho việc phòng ngừa và đấu tranh với vi phạm hành chính. 4.1.2. Phạt tiền:
    Trong xử phạt vi phạm hành chính phạt tiền là hình phạt chính được áp dụng phổ biến nhất đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật hành chính. Đây là hình thức tác động trực tiếp về mặt kinh tế đối với chủ thể vi phạm hành chính. Hơn nữa, thủ tụcnộp phạt đơn giản cũng như người có thẩm quyền xử phạt dễ dàng xử lý những vi phạm hành chính đó.
    Tuy nhiên, đối với quy định về mức phạt tiền tối thiểu hiện nay là từ 10.000 đồng là thấp so với tình hình kinh tế đất nước hiện nay và không đủ tính răn đe đối với cá nhân, tổ chức vi phạm vì vậy cần tăng mức phạt tiền tối thiểu đối với từng loại vi phạm hành chính. Thực tế công tác xử phạt vi phạm hành chính thời gian qua đã chứng tỏ rằng, đối với một số địa bàn ở những thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh thì việc áp dụng mức xử phạt tiền chung theo quy định như Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính là không đủ sức răn đe, không đạt hiệu quả và yêu cầu như mong muốn. Theo ý kiến của em, nên xử phạt tiền cao hơn so với mức phạt chung đối với một số hành vi vi phạm trong khu vực nội thành của các đô thị loại đặc biệt để có thể vừa bảo đảm tính chặt chẽ, thận trọng về thủ tục trong xem xét, cân nhắc áp dụng mức phạt tiền cao hơn khi cần thiết vừa đáp ứng ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương và yêu cầu thực tế đấu tranh chống vi phạm hành chính trong một số lĩnh vực đang “nóng” tại địa bàn đô thị lớn.
    Đối với mức phạt tiền tối đa hiện nay là 500 triệu đồng quy định tại điểm d khoản 2 Điều 14 của pháp lệnh:
    Phạt tiền tối đa đến 500.000.000 đồng được áp dụng đối với hành vi vi phạm hành chính trong các lĩnh vực: bảo vệ môi trường; chứng khoán; xây dựng; đất đai; ngân hàng; sở hữu trí tuệ; quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản; nghiên cứu, thăm dò và khai thác nguồn lợi hải sản, dầu khí và các loại khoáng sản khác.”
    Theo em quy định này vẫn chưa đủ mạnh để xử lý đối với các cá nhân, tổ chức vi phạm trong lĩnh vực môi trường, ngân hàng, dầu khí và các loại khoáng sản khác. Vì trong các lĩnh vực này khả năng chủ thể thu được lợi nhuận rất cao nên họ sẽ bất chấp quy định pháp luật để vi phạm. Chẳng hạn, khi những container rác thải được chở về cảng biển Việt Nam bị phát hiện thì người ta sẵn sàng không nhận là chủ hoặc thậm chí chấp nhận mức phạt 500 triệu đồng trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Kinh nghiệm của Singapore cho thấy, nước này áp dụng mức phạt tăng cao dần và đến một mức cao nhất định, người vi phạm sẽ phải ra Tòa và như vậy để kinh doanh làm giàu thì bất cứ ai cũng phải tuân thủ pháp luật. Do đó cần thiết phải tăng mức xử phạt đối với cá nhân tổ chức vi phạm hành chính trong các lĩnh vực này, nhằm làm tăng tính răn đe và phòng ngừa các hành vi vi phạm.
    Bên cạnh việc phạt tiền cao hơn thì nhất thiết phải giáo dục pháp luật cho người dân. Nếu chỉ chú trọng nâng mức phạt tiền cao mà không quan tâm các giải pháp khác về kinh tế - xã hội, công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật thì sẽ không đạt được mục đích để giảm vi phạm mà sẽ tạo ra bất lợi về nhiều mặt dẫn đến tiêu cực. 4.1.3. Hình phạt trục xuất: Trục xuất thể hiện chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nó không chỉ là công cụ hữu hiệu trong việc giải quyết một cách nhanh chóng, đúng pháp luật quốc tế các trường hợp người nước ngoài vi phạm hành chính trên lãnh thổ Việt Nam mà còn có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ lợi ích chủ quyền quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam. Tuy nhiên, để đảm bảo tính thống nhất trong áp dụng và thi hành hình phạt này trên thực tế, theo em cần có những quy định cụ thể hơn nữa về đối tượng bị áp dụng, cách thức, điều kiện và phạm vi áp dụng loại hình phạt này để trên cơ sở đó hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói chung, chế định xử phạt hành chính nói riêng, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. 4.2. Đánh giá về các hình phạt bổ sung: Biện pháp tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghềnhằm tước đoạt và hạn chế khả năng chủ thể tiếp tục thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Hình phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm nhằm ngăn chặn cá nhân, tổ chức vi phạm không có điều kiện để tiếp tục vi phạm cũng như nhằm mục đích tước đoạt tang vật, phương tiện vi phạm của cá nhân, tổ chức để sung vào công quỹ nhà nước. 4.3. Đánh giá về các biện pháp khắc phục hậu quả: Về bản chất, các biện pháp này đều không phải là biện pháp trừng phạt người vi phạm mà chỉ nhằm mục đích khắc phục hậu quả do chủ thể của hành vi vi phạm hành chính đã để lại trên thực tế. Các biện pháp như đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục nhằm giúp đỡ những người đối tượng vi phạm pháp luật sửa chữa sai lầm để họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống cộng đồng. Một số ý kiến về việc điều chỉnh, bổ sung các biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đối với xử lý vi phạm hành chính. Hiện nay, với những công ty vi phạm nghiêm trọng luật bảo vệ môi trường, vi phạm nhiều lần, hậu quả lớn, mức độ nguy hiểm cho xã hội cao phải bị xử lý trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, pháp luật hình sự không xử lý hình sự các tổ chức, mà xử lý vi phạm hành chính lại không tương xứng với tính chất và mức độ vi phạm. Do vậy, để tạo cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân trong trường hợp xử lý vi phạm hành chính các tổ chức, cần phải quy định cụ thể về việc tiếp tục truy cứu trách nhiệm hành chính những cá nhân trong tổ chức có lỗi trong việc để xảy ra vi phạm pháp luật. Sau khi ban hành quyết định xử lý đối với tổ chức cần phải tiếp tục làm rõ trách nhiệm của các cá nhân liên quan để có hình thức xử lý thích hợp làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự khi tiếp tục vi phạm nghiêm trọng hơn. Theo chúng tôi, như vậy vẫn đảm bảo nguyên tắc mỗi hành vi vi phạm chỉ bị xử lý một lần, vì hành vi và lỗi của tổ chức là hành vi và lỗi tổng hợp, bao hàm hành vi và lỗi của nhiều cá nhân. Trong đó, có những cá nhân có hành vi và lỗi rõ ràng có thể cấu thành hành vi và lỗi riêng, độc lập, nên có thể xử lý vi phạm hành chính đối với những cá nhân đó.
    C.KẾT LUẬN​ Vi phạm hành chính là loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến trong trong đời sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm cho xã hội của nó thấp hơn so với tội phạm nhưng vi phạm hành chính là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, tập thể, lợi ích của cá nhân cũng như lợi ích chung của toàn thể cộng đồng, là nguyên nhân dẫn đến tình trạng phạm tội nảy sinh trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nếu như không được ngăn chặn và xử lý kịp thời. Chính vì lẽ đó công tác đấu tranh phòng và chống vi phạm hành chính luôn là vấn đề được xã hội luôn quan tâm đúng mức. Chính vì vậy vấn đề các hình thức xử phạt vi phạm hành chính đã và đang được nhà nước quan tâm một cách đầy đủ và đúng đắn. Từ đó tạo dựng nên một trật tự xã hội công bằng mà ở đó mọi hành vi của công dân đều được pháp luật tôn trọng và bảo vệ một cách đúng mức. Cùng với sự phát triển của những quy định về hình thức xử phạt vi phạm hành chính thì những biện pháp khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm hành chính gây ra cũng được pháp luật quan tâm một cách đầy đủ. Tất cả những yếu tố trên đây đã góp phần tạo dựng một hành lang pháp lý vững chắc cho các chủ thể có đủ tự tin để tham gia vào quan hệ pháp luật hành chính. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO​ 1. Giáo trình Luật Hành Chính Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2008.
    2. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995. 3. Nghị định số 54/2001/NĐ – CP của Chính phủ. 4. Nghị định 81/2006 NĐ – CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. 5. Google.com.vn MỤC LỤC
    A. LỜI MỞ ĐẦU 1
    B. PHẦN NỘI DUNG 1
    II. Một vài khái niệm liên quan 1 1.1.Vi phạm hành chính 1 1.2.Trách nhiệm hành chính . 2 1.3.Xử phạt vi phạm hành chính 2 III- Các hình thức xử lý vi phạm hành chính 2 2.1. Các hình phạt chính . 2 2.1.1.Cảnh cáo . 2 2.1.2.Phạt tiền . 2
    2.1.3. Trục xuất 3
    2.2. Các hình phạt bổ sung 3 2.2.1. Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề . 4 2.2.2. Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính 4 III. Các biện pháp khắc phục hậu quả do vi phạm hành chính gây ra 5 IV – Đánh giá tính hợp lý của pháp luật về một số hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả . 8 4.1. Đánh giá về hình phạt chính . 8 4.2. Đánh giá về các hình phạt bổ sung 9 4.3. Đánh giá về các biện pháp khắc phục hậu quả 9 C.KẾT LUẬN . 10
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...