Luận Văn Đánh giá tình hình tài chính của công ty tư vấn giám sát và xây dựng công trình

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đánh giá tình hình tài chính của công ty tư vấn giám sát và xây dựng công trình
    3.1. Đánh giá tình hình tài chính của công ty tư vấn giám sát và xây dựng công trình
    3.1.1.Thực trạng về tình hình tài chính của công ty tư vấn giám sát và xây dựng công trình
    Sau khi đã phân tích tình hình tài chính của công ty ở chương 2 em nhận thấy thực trạng tài chính các năm của công ty như sau:
    -Về tài sản : Tổng tài sản và nguồn vốn năm 2003 là 133.882.824.075đ, năm 2004 116.986.842.726đ, năm 2005 169.723.034.667đ. Như vậy, tổng tài sản và nguồn vốn có những biến động lớn qua các năm. Năm 2004 giảm so với năm 2003 là 16.895.981.349đ “-12,62%”, nhưng đến năm 2005 lại tăng so với 2004 là 52.736.191.931đ “ 45,08%”
    -Về tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn: Năm 2004 giảm so với 2003 là 18.569.082.556đ “-17,61%”, năm 2005 tăng so với 2004 là 52.271.424.650đ “ 60,18%”.
    -Về tài sản cố định và đầu tư dài hạn: Năm 2004 tăng so với năm 2003 là 1.643.101.250đ “ 5,77%”, năm 2005 tăng so với năm 2004 là 401.130.880đ “ 1,33%”.
    -Về nợ phải trả : Nợ phải trả của công ty các năm như sau: năm 2003 127.653.093.980đ, năm 2004 là 113.459.094.243đ, năm 2005 là 163.931.507.765đ
    Năm 2004 giảm so với năm 2003 là 14.193.999.737 “-11,12%”, năm 2005 tăng so với năm 2004 là 50.472.413.512đ “ 44,49%”.
    - Về nguồn vốn chủ sở hữu: Năm 2003 là 6.229.730.095đ, năm 2004 là 3.527.78.83đ, năm 2005 là 5.791.526.902đ. Năm 2004 nguồn vốn chủ sở hữu giảm so với năm 2003 là 2.701.981.612đ “-76,59%”, năm 2005 tăng so với năm 2004 là 2.263.778.419đ “ 64,17%”.
    -Về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh:
    Về tổng doanh thu: Tổng doanh thu năm 2003 là 136.546.924.615đ, năm 2004 131.362.102.057đ, năm 2005 là 169.799.000.000đ. Doanh thu giai đoạn 2003-2005 biến động là khá lớn, tăng giảm không đều, năm 2004 doanh thu sụt giảm nghiêm trọng chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như vấn đề tài chính của công ty chưa thực sự ổn định. Doanh thu không ổn định kéo theo lợi nhuận của công ty thu được qua các năm cũng biến động khá lớn, năm 2003 là 2.694.327.972đ, năm 2004 là 1.088.980.074đ, năm 2005 là 3.479.130.184đ.
    Sơ bộ tình hình tài chính của công ty ta nhận thấy: Nhìn chung tình hình tài chính của công ty trong giai đoạn 2003-2005 có khá nhiều biến động, sự tăng giảm lớn về tài sản và nguồn vốn qua các năm, lợi nhuận thu được chưa thực sự ổn định. Bên cạnh đó những nguy cơ tiềm tàng như khả năng thanh toán ngay các khoản nợ đến hạn của công ty còn thấp do công ty còn để ứ đọng vốn và hàng tồn kho nhiều, các khoản phải thu gia tăng chứng tỏ công ty chưa chú ý đến việc thu hồi các khoản phải thu, chưa có biện pháp hữu hiệu để làm giảm lượng vốn bị chiếm dụng, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, khả năng sinh lời của vốn còn thấp.
    Tuy nhiên, những nhận định trên chỉ là sơ bộ, để có những kết luận chính xác về tình hình tài chính của công ty trong 3 năm liên tục cần phải tiến hành phân tích một cách chi tiết các số liệu trên các báo cáo tài chính, bên cạnh đó cần có thêm các thông tin cần thiết như: Thông tin về thị trường đầu vào, đầu ra, đặc điểm kinh tế kỹ thuật, quy trình công nghệ, các số liệu trung bình của nghành và khảo sát ở các công ty cùng nghành khác. Tuy vậy, em cũng xin đưa ra một số giải pháp cho vấn đề về hoạt động tàichính của công ty như sau:
    3.1.2.Một số giải pháp về hoạt động tài chính của công ty tư vấn giám sát và xây dựng công trình.
    Qua phần phân tích chi tiết thực trạng tài chính của công ty tư vấn giám sát và xây dựng công trình trong 3 năm liên tiếp 2003, 2004, 2005 ta nhận thấy tình hình tài chính của công ty còn khá nhiều bất cập, đòi hỏi quản trị công ty cần có những giải pháp tức thời cũng như lâu dài cho vấn đề tài chính của công ty cho năm tài chính tiếp theo.
    Những vấn đề về tài chính mà công ty còn tồn đọng đến cuối năm 2005, qua phân tích đã nhận thấy và cần có những giải pháp cho những tồn đọng này như sau :
    - Về tình hình công nợ: Đây là vấn đề nổi cộm nhất của công ty trong những năm qua và đặc biệt là vào cuối năm 2005. Tỷ trọng của nguồn vốn nợ phải trả chiếm tỷ trọng quá lớn trong tổng số nguồn vốn của công ty. Điều này phản ánh một thực trạng là trong tổng số nguồn vốn mà công ty đang quản lý và sử dụng chủ yếu là do vốn vay nợ mà có. Như vậy, công ty sẽ gặp rất nhiều khó khăn về tình hình tài chính và rủi ro về tài chính của công ty sẽ tăng lên. Qua phân tích ta nhận thấy, tỷ trọng của nợ ngắn hạn chiếm rất lớn trong tổng số nợ phải trả. Kết hợp với phần phân tích khả năng thanh toán cũng như khả năng thanh toán tức thời của công ty là rất thấp. Do vậy, công ty không có khả năng thanh toán các khoản vay ngắn hạn. Như vậy, rủi ro về khả năng thanh toán là rủi ro ảnh hưởng nghiêm trọng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, thậm chí công ty còn bị phá sản. Tỷ trọng của nợ vay ngắn hạn lớn tức là tỷ trọng của nợ dài hạn và tỷ trọng của nợ khác chiếm trong tổng số nợ là nhỏ. Do vậy, biện pháp đưa ra ở đây là công ty cần có giải pháp chuyển một phần nợ vay ngắn hạn thành nợ vay trung và dài hạn( nếu có thể). Vay ngắn hạn trong công ty chủ yếu là vay ngắn hạn từ ngân hàng nên công ty có thể gia hạn nợ những khoản đến hạn trả. Những biện pháp này sẽ làm giảm một phần gánh nặng nợ nần, gánh nặng rủi ro thanh toán cho công ty trước mắt. Bên cạnh đó, qua phân tích về các khoản nợ phải thu, ta thấy công ty cũng bị chiếm dụng một lượng vốn khá lớn, các khoản phải thu của công ty chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản, trong đó đặc biệt là các khoản phải thu của khách hàng. Điều này phản ánh công ty chưa thực sự chú ý hoặc không thể thu hồi các khoản nợ đọng. Vì vậy, công ty cần phải có các biện pháp thu hồi nợ đọng, có biện pháp khuyến khích khách hàng thanh toán tiền đúng hạn. Các biện pháp này sẽ giúp công ty thanh toán các khoản nợ nần một cách tốt nhất, đồng thời góp phần làm lành mạnh hoá tình hình hoạt động tài chính của công ty.
    - Về nhóm các chỉ tiêu phản ánh sự biến động về cơ cấu tài sản của công ty : Tỷ trọng của tài sản lưu động và đầu tư tài chính ngắn hạn chiếm trong tổng tài sản của công ty là khá lớn, phản ánh sự mở rộng quy mô hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty nhưng bên cạnh đó tỷ trọng của tiền chiếm trong tổng số tài sản lưu động và đầu tư tài chính ngắn hạn là quá nhỏ, điều này gây khó khăn lớn cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, thậm chí không đảm bảo cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp được tiến hành liên tục. Điều này dẫn đến việc sử dụng kém hiệu quả vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, công ty cần có ngay biện pháp bổ xung thêm lượng tiền mặt ở mức vừa phải đủ để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được ổn định, liên tục.
    - Qua bảng cân đối kế toán ta cũng thấy, công ty chưa chú trọng đầu tư vào các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn, công ty nên có phương hướng đầu tư vào lĩnh vực này trong năm tới. Bởi đây là khoản có khả năng tạo ra nguồn lợi tức trước mắt cho công ty. Chỉ tiêu này càng cao thì khả năng tạo ra nguồn lợi tức trước mắt càng lớn.
    -Tỷ trọng của hàng tồn kho: Tỷ trọng hàng tồn kho chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số tài sản lưu động và đầu tư tài chính ngắn hạn, phản ánh mức tồn kho của công ty là khá lớn, hàng tồn kho tồn đọng nhiều. Công ty cần chi tiết từng loại mặt hàng tồn kho, xác định rõ nguyên nhân và tìm mọi biện pháp giải quyết dứt điểm các mặt hàng tồn đọng, nhằm thu hồi vốn, góp phần cho vấn đề sử dụng vốn có hiệu quả hơn. Công ty cần kết hợp với chủ đầu tư đẩy mạnh tiến độ xây dựng các công trình đang thi công nhằm đưa lượng hàng tồn kho lớn vào sản xuất kinh doanh.
    -Về tỷ trọng tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn: Tỷ trọng của tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn là khá lớn trong tổng tài sản của công ty, điều này là hợp lý bởi trong nghành xây dựng, việc đầu tư mua sắm thiết bị máy móc phục vụ sản xuất thi công chiếm một lượng vốn khá lớn. Tỷ trọng này trong công ty gia tăng hàng năm chứng tỏ cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty ngày càng được tăng cường và quy mô năng lực sản xuất kinh doanh của công ty ngày càng được mở rộng. Công ty cần phát huy hơn nữa trong việc đầu tư máy móc thiết bị hiện đại nhằm cạnh tranh tốt hơn trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như hiện nay và trong tương lai.
    -Một bất cập đối với công ty hiện nay đó là công ty chưa chú ý đến các khoản đầu tư tài chính dài hạn. Bởi đây là khoản đầu tư có khả năng tạo ra nguồn lợi tức lâu dài cho công ty, đầu tư vào lĩnh vực này càng nhiều thì khả năng tạo ra nguồn lợi tức lâu dài cho công ty ngày càng lớn và ổn định. Bên cạnh đó công ty cũng vẫn chưa sử dụng tài sản cố định thuê tài chính. Đôi khi sử dụng loại tài sản này phát huy hiệu quả rất lớn, giảm bớt được một lượng vốn lớn khi phải mua những tài sản giá trị lớn không thực sự cần thiết. Lượng vốn đó dùng vào đầu tư lĩnh vực khác mang lại hiệu quả cao hơn cho công ty.
    -Về tỷ trọng chi phí xây dựng cơ bản dở dang: Tỷ trọng này lại chiếm lớn trong tổng số tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn cũng như trong hàng tồn kho. Điều này phản ánh vốn đầu tư vào xây dựng cơ bản dở dang chưa hoàn thành của công ty là rất lớn. Do đó, công ty cần phải tìm mọi biện pháp để gấp rút hoàn thành và đưa các công trình xây dựng dở dang vào tiến độ. Những công trình có đủ vốn và thủ tục xây dựng cơ bản cần làm nhanh thủ tục nghiệm thu và bám sát chủ đầu tư để thanh toán kịp thời. Những công trình chưa có vốn hoặc thiếu thủ tục xây dựng cơ bản cần chủ động phối hợp với chủ đầu tư tháo gỡ từng bước để thu hồi nhanh nợ khối lượng. Những công trình làm B phụ cần thường xuyên bám sát nhà thầu chính để thanh toán. Những công trình hoàn thành cần phối hợp với chủ đầu tư duyệt nhanh quyết toán để thanh toán hết kinh phí giữ lại 5% chờ quyết toán.
    -Để không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của công ty, một mặt công ty cần phải sử dụng tiết kiệm vốn sản xuất kinh doanh, mặt khác công ty phải sử dụng hợp lý về cơ cấu vốn kinh doanh hiện có của công ty. Về cơ cấu của vốn sản xuất kinh doanh thường phụ thuộc vào đặc điểm kinh tế kỹ thuật của từng nghành. Hay nói một cách khác, mỗi ngành kinh tế, mỗi doanh nghiệp, mỗi công ty, ngay cả những doanh nghiệp cùng ngành kinh tế nhưng cũng có một cơ cấu nguồn vốn riêng và do đó cũng không có câu trả lời chính xác nào cho câu hỏi : Cơ cấu vốn sản xuất kinh doanh nào là hợp lý nhất. Song để đảm bảo cơ cấu sản xuất kinh doanh hợp lý và sử dụng có hiệu quả, công ty cần tập trung giải quyết một số biện pháp sau:
    Phải đảm bảo tỷ lệ thích hợp giữa tài sản cố định tích cực và tài sản cố định không tích cực.
    Phải đảm bảo tỷ lệ thích hợp giữa các loại thiết bị sản xuất trên quy trình công nghệ, đảm bảo sự cân đối về năng lực sản xuất giữa các bộ phận, giữa các đơn vị trong công ty.
    Phải đảm bảo tỷ lệ thích hợp giữa vốn cố định và vốn lưu động trong tổng số vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm tạo ra sự đồng bộ giữa ba yếu tố của quá trình kinh doanh. Có như vậy mới nâng cao được hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty.
    -Về nhóm các chỉ tiêu phản ánh nguồn tự tài trợ của công ty:
    Qua phân tích ta thấy, tỷ suất tự tài trợ của công ty là quá nhỏ. Phản ánh khả năng tự tài trợ của công ty là rất thấp,công ty không thể chủ động đáp ứng nhu cầu về nguồn vốn cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Điều này phản ánh sự mất ổn định về tài chính của công ty trong năm tài chính vừa qua và trong tương lai gần. Công ty cần có biện pháp làm tăng nguồn vốn chủ sở hữu, bởi khi nguồn vốn chủ sở hữu tăng công ty có thể chủ động trong việc đảm bảo vốn cho nhu cầu của mọi hoạt động sản xuất kinh doanh và rủi ro về tài chính của công ty sẽ giảm, góp phần làm bình ổn tình hình tài chính của công ty, giúp công ty hoạt động hiệu quả hơn, ổn định vững chắc trong thị trường cạnh tranh khốc liệt.
    -Về nhóm các chỉ tiêu phản ánh tỷ suất tự tài trợ về tài sản lưu động và đầu tư tài chính ngắn hạn, tỷ suất tự tài trợ về tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn: Do lượng vốn chủ sở hữu nhỏ, vì vậy các tỷ suất này công ty đạt được là rất thấp, kéo theo rủi ro về tài chính đối với công ty sẽ rất cao, sự phụ thuộc về tài chính vào khách hàng và bạn hàng là rất lớn. Thực tiễn chứng minh rằng : Hầu hết các doanh nghiệp nhà nước sau khi chuyển thành công ty cổ phần đã hoạt động có hiệu quả. Ngoài việc tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, tăng các khoản nộp ngân sách nhà nước, thu nhập của người lao động cũng được tăng đáng kể, thì cổ phần hoá là biện pháp hữu hiệu nhất nhằm huy động nguồn vốn nhàn dỗi trong nhân dân, nguồn vốn từ cán bộ công nhân viên trong công ty. Biện pháp này đã khắc phục được tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng trong một số doanh nghiệp. Do vậy, công ty nên có phương hướng chuyển thành công ty cổ phần nhà nước ( Nhà nước nắm giữ > 51% cổ phần). Như vậy, công ty mới giải quyết được các vấn đề về tình hình tài chính tài chính hiện tại : Nâng cao nguồn vốn chủ sở hữu, bổ xung nguồn vốn rất lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
    -Nhóm các chỉ tiêu phản ánh thực trạng về khả năng sinh lời của vốn : Qua phân tích ta thấy cả hệ số sinh lời của vốn kinh doanh và hệ số sinh lời của vốn chủ sở hữu, tỷ suất lợi nhuận trên vốn vay công ty đạt được trong các năm đều ở mức thấp. Điều này thể hiện sự bất ổn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, công ty sử dụng vốn chưa thật sự hiệu quả. Công ty cần nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng vốn thông qua việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản lưu động, tài sản cố định, giảm tới mức tối thiểu thời gian quay vòng của tài sản lưu động, cải tiến trong hoạt động sản xuất kinh doanh để đạt được hiệu quả cao hơn.
    -Nhóm các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh của công ty : Kết quả của việc quản lý và sử dụng vốn có ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp gồm: Khối lượng sản phẩm hàng hoá tính bằng đơn vị hiện vật, tổng giá trị sản lượng, giá trị sản lượng hàng hoá sản xuất, doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Công ty tư vấn giám sát và xây dựng công trình đạt được các chỉ tiêu này khá thấp. Công ty cần phải tăng cường quy mô của kết quả đầu ra, mặt khác phải sử dụng tiết kiệm và hợp lý về cơ cấu của vốn sản xuất kinh doanh.
    Trên đây là một số đánh giá và biện pháp sử lý đối với một số chỉ tiêu tài chính của công ty tư vấn giám sát và xây dựng công trình. Tuy mỗi chỉ tiêu có sự khác nhau về ý nghĩa kinh tế nhưng đều có tác dụng nhất định trong việc quan sát, nghiên cứu đánh giá tình hình tài chính của công ty trong một kỳ kinh doanh nhất định. Giữa chúng có mối liên hệ mật thiết hữu cơ, bổ xung cho nhau nhằm đáp ứng cho việc đánh giá đầy đủ, toàn diện và sâu sắc về tình hình tài chính của công ty. Trên cơ sở đó giúp cho các nhà quản trị công ty có những biện pháp điều chỉnh kịp thời, khắc phục được những tồn tại yếu kém ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của công ty, làm lành mạnh hoá tình hình tài chính của công ty, tránh được những rủi ro không đáng có về tài chính.
    3.1.3.Hoàn thiện về tổ chức công tác phân tích
    Tổ chức công tác phân tích tài chính trong công ty là việc thiết lập trình tự các bước công việc cần tiến hành trong quá trình phân tích tài chính. Để phân tích tài chính trong công ty thực sự phát huy tác dụng trong qua trình ra quyết định, phân tích tài chính được tổ chức khoa học, hợp lý, phù hợp đặc điểm kinh doanh , mục tiêu kinh doanh của công ty và sự quan tâm của từng đối tượng . Bởi vậy, để hoàn thiện tổ chức công tác phân tích ta hoàn thiện thêm các giai đoạn của quá trình phân tích với việc thực hiện công tác phân tích đúng các quy trình đã định, và ở các bước tiến hành được thực hiện chu đáo cẩn thận. Để hoạt động phân tích tài chính đạt được hiệu quả cao, cần làm tốt ngay từ khâu chuẩn bị. Nó bao gồm một số công đoạn như : Xác định mục tiêu phân tích, thu thập và xử lý thông tin, lập kế hoạch phân tích:



     
Đang tải...