Thạc Sĩ Đánh giá thực trạng phát hiện và quản lý bệnh nhân sốt rét của mạng lưới y tế cơ sở

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 8/12/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Mục lục
    Trang
    Trang phụ bìa i
    Lời cam đoan ii
    Lời cám ơn iii
    Mục lục iv
    Danh mục các chữ viết tắt vii
    Danh mục các bảng biểu viii
    Mở đầu 1
    1.Tổng quan tài liệu 3
    1.1 Sơ lược lịch sử phát hiện và phòng chống bệnh sốt rét thế giới 3
    1.2 Tình hình PCSR thế giới 3
    1.3 Chiến lược PCSR toàn cầu hiện nay 5
    1.4 Những khó khăn của công tác PCSR hiện nay 6
    1.5 Công tác PCSR tại Việt Nam 7
    1.6 Tình hình sốt rét tại huyện Easoup 7
    1.7 Hệ thống phát hiện và quản lý người mang KSTSR tại Việt Nam và tại
    huyện Easoup
    8
    1.7.1 Hệ thống phát hiện và quản lý người mang KSTSR tại Việt nam 8
    1.7.2 Tại huyện Easoup 9
    2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu 13
    2.1. Địa điểm nghiên cứu 13
    2.2 Đối tượng nghiên cứu 13
    2.2.1 Đối tượng nghiên cứu là các dịch vụ y tế có liên quan đến phát hiện
    và quản lý người mang KSTSR của y tế xã và YTTB
    13
    2.2.2 Đối tượng nghiên cứu là điểm kính hiển vi 13
    2.2.3 Cộng đồng và một số đối tượng khác của 3 xã được chọn 132.3. Thiết kế nghiên cứu 14
    2.3.1 Cắt ngang mô tả các dịch vụ y tế liên quan SR tại trạm y tế, YTTB. 14
    2.3.2 Ngang ở cộng đồng : 14
    2.3.3 Mô tả thực trạng hoạt động điểm kính hiển vi. 15
    2.4 Kỹ thuật sử dụng trong nghiên cứu 16
    2.4.1 Kỹ thuật quan sát và phỏng vấn tại Trạm y tế, y tế thôn bản 16
    2.4.2 Kỹ thuật điều tra hoạt động điểm kính hiển vi 16
    2.4.3 Kỹ thuật XN tìm KSTSR bằng phương pháp nhuộm giêm sa 16
    2.5 Các chỉ số và phương pháp đánh giá trong nghiên cứu 17
    2.5.1 Chỉ số đánh giá dịch vụ y tế tại trạm y tế liện quan SR, Nhân viên
    viên y tế thôn bản
    17
    2.5.2 Các chỉ số và phương pháp đánh giá trong nghiên cứu 18
    2.5.2.1 Chỉ số đánh giá trong điều tra thực trạng hoạt động điểm kính 18
    2.5.2.2 Chỉ số trong điều tra và phân tích 19
    2.6 Phương pháp xử lý số liệu 19
    2.7. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu 19
    3. Kết quả nghiên cứu 21
    3.1. Thực trạng hoạt động của trạm y tế xã và của YTTB 21
    3.1.1 Nhân lực và trình độ của y tế xã, thôn. 21
    3.1.1.1 Vị trí xây dựng và dân số trong phạm vi phục vụ của trạm y tế 21
    3.1.1.2 Trình độ của cán bộ y tế xã, thôn 21
    3.1.1.3 Trình độ văn hóa của y tế thôn bản 22
    3.1.2 Tình hình hoạt động của dịch vụ y tế liên quan đến phát hiện và
    quản lý KSTSR tại trạm y tế, YTTB
    22
    3.1.2.1 Số liệu chung của 3 xã nghiên cứu 22
    3.1.2.2 Tỷ lệ tháng sẵn có theo về quản lý ca bệnh sốt rét 23
    3.1.2.3 Tỷ lệ tiếp cận về quản lý ca bệnh sốt rét 23
    3.1.2.4 Tỷ lệ sử dụng, sử dụng đủ và sử dụng tốt về quản lý ca bệnh sốt rét 24
    v 3.1.3 Tình hình KSTSR tại các điểm nghiên cứu 25
    3.1.3.1 Kết quả điều tra KSTSR tại các điểm nghiên cứu 25
    3.1.3.2Phân bố KSTSR theo lứa tuổi 26
    3.1.3.3Cơ cấu KSTSR tại các điểm nghiên cứu 26
    3.2. Thực trạng hoạt động của điểm kính hiển vi trong việc phát hiện và
    quản lý người mang KSTSR, ca bệnh tại cộng đồng
    27
    3.2.1 Trình độ và đào tạo XN viên điểm kính hiển vi : 27
    3.2.2 Chất lượng XN tìm KSTSR của điểm kính hiển vi : 27
    3.2.3 Phân tích các loại sai sót trong phát hiện KSTSR 28
    3.2.4 Kỹ thuật lấy máu và nhuôm giêm sa 29
    3.2.5 Trang thiết bị và bảo quản điểm kính hiển vi 29
    3.2.6 Hoạt động phục vụ phát hiện ca bệnh của điểm kính hiển vi 30
    3.2.7 Thời gian trả lời kết quả xét nghiệm KSTSR tại các điểm kính 30
    3.2.8 Số lần xét nghiệm KSTSR theo dõi kết quả điều trị tại các điểm kính 30
    4. Bàn luận 32
    4.1. Về hoạt động mạng lưới y tế cơ sở (xã, thôn) trong việc phát hiện,
    quản lý bệnh nhân sốt rét tại các xã bên giới huyện Ea Soup
    32
    4.2 Thực trạng hoạt động của điểm kính hiển vi trong việc phát hiện và
    quản lý người mang KSTSR tại cộng đồng.
    35
    5. Kết luận 40
    5.1 Thực trạng hoạt động mạng lưới y tế cơ sở (xã, thôn) trong việc phát
    hiện, quản lý bệnh nhân sốt rét tại các xã biên giới huyện EaSoup
    40
    5.2 Thực trạng hoạt động của điểm kính hiển vi và nhận thức của người dân
    trong việc phát hiện và quản lý ca bệnh tại cộng đồng
    40
    Kiến nghị 42
    Tài liệu tham khảo
    Phụ lục
    viNhững chữ viết tắt trong đề cương
    BNSR : Bệnh nhân sốt rét
    CBM : Giám sát dựa vào cộng đồng (Community-Based Monitoring)
    CSYT : Cơ sở y tế
    CSSKBĐ : Chăm sóc sức khỏe ban đầu
    DCTD : Di cư tự do
    GDTT : Giáo dục truyền thông
    KAP : Knowlegde - Attitude - Practice
    KST : Ký sinh trùng
    KSTSR : Ký sinh trùng sốt rét
    MT-TN : Miền Trung-Tây Nguyên
    NVYT : Nhân viên y tế
    P.f : Plasmodium falciparum
    P.v : Plasmodium vivax
    PCSR : Phòng chống sốt rét
    PH : Phối hợp (P.f +P.v)
    SL : Số lượng
    SR : Sốt rét
    SRLH : Sốt rét lưu hành
    SRLS : Sốt rét lâm sàng
    SRAT : Sốt rét ác tính
    TDSR : Tiêu diệt sốt rét
    TVSR : Tử vong sốt rét
    WHO : Tổ chức y tế thế giới
    XN : Xét nghiệm
    YTTB : Y tế thôn bản
    vii DANH MỤC CÁC BẢNG
    Trang
    Bảng 3.1. Đặc điểm chung của y tế cơ sở xã và thôn . 21
    Bảng 3.2. Trình độ chuyên môn của cán bộ y tế cơ sở . 21
    Bảng 3.3. Trình độ văn hóa của YTTB 22
    Bảng 3.4. Số liệu chung 3 xã nghiên cứu 22
    Bảng 3.5. Tháng sẵn có về quản lý ca bệnh (từ 7/2007-12/2008 ) 23
    Bảng 3.6. Tỷ lệ tiếp cận về quản lý ca bệnh sốt rét 24
    Bảng 3.7. Tỷ lệ sử dụng, sử dụng đủ và sử dụng tốt về quản lý ca bệnh tại các
    điểm nghiên cứu (trong 6 tháng) . 24
    Bảng 3.8. Kết quả điều tra KSTSR . 25
    Bảng 3.9. Tỷ lệ KSTSR theo lứa tuổi . 26
    Bảng 3.10. Cơ cấu KSTSR tại các điểm nghiên cứu . 26
    Bảng 3.11. Trình độ của XN viên . 27
    Bảng 3.12. Chất lượng XN lam máu của XN viên 27
    Bảng 3.13. Tỷ lệ các sai sót trong soi lam XN KSTSR 28
    Bảng 3.14. Kỹ thuật lấy lam máu và nhuộm giêmsa ở các điểm kính . 29
    Bảng 3.15. Trang thiết bị, hóa chất tối thiểu và bảo quản KHV . 29
    Bảng 3.16. XN thụ động và chủ động của các ĐKHV từ (7/2007-6/2008) . 30
    Bảng 3.17. Thời gian trả lời kết quả giúp chẩn đoán điều trị bệnh sốt rét 30
    Bảng 3.18. Số lần xét nghiệm phục vụ quản lý bệnh nhân sốt rét . 31
    viii 1
    MỞ ĐẦU
    Bệnh sốt rét (SR) là một bệnh truyền nhiễm, do ký sinh trùng sốt rét
    (KSTSR) gây nên và muỗi Anopheles (An.) là véc tơ truyền bệnh.
    Với những kết quả quan trọng đó năm 1955, Tổ chức y tế thế giới
    (WHO) đã đề ra chương trình tiêu diệt sốt rét (TDSR) trên toàn thế giới, sau đó
    đã mang lại kết quả nhất định tại một số nước thuộc Liên Xô cũ, Bắc Mỹ. Năm
    1978 chiến lược Chăm sóc sức khoẻ ban đầu ra đời (Tuyên ngôn ALma- Ata )
    đồng thời những năm cuối của thế kỷ XX bệnh SR đã quay trở lại tại nhiều
    nước, nhiều khu vực trên thế giới đặc biệt ở những nước đang phát triển (Châu
    Á, Châu Phi), từ đó WHO quyết định chuyển chiến lược TDSR sang phòng
    chống sốt rét (PCSR) với các mục tiêu thay đổi khác trước [6], [18], [34].
    Theo thống kê của Chương trình PCSR quốc gia, năm 1992 cả nước có
    hơn 1 triệu người mắc, 4.646 chết do do SR. Đặc biệt ở khu vực miền Trung -
    Tây nguyên là nơi có tình hình SR khó khăn và nghiêm trọng, năm 1992 tại
    khu vực này đã có 337.809 người mắc và 1.314 người chết do SR [20].
    Trước tình hình SR đang diễn biến phức tạp như vậy chương trình quốc
    gia PCSR tại Việt Nam đã đề ra mục tiêu là giảm chết, giảm mắc và khống chế
    dịch sốt rét, đặc biệt tập trung phòng chống sốt rét cho các huyện trọng điểm,
    vùng sâu vùng xa, vùng biên giới [19], [20]. Từ đó đến nay công tác phòng
    chống sốt rét đã có những thành công đáng kể trong giảm chết, giảm mắc và
    khống chế dịch sốt rét [32], [33]. Tuy nhiên nhiều vùng thuộc khu vực Tây
    Nguyên vẫn còn nhiều thách thức trong việc duy trì thành quả đã đạt được.
    Huyện Ea Soup là huyện biên giới, thuộc vùng trọng điểm SR, đời sống
    kinh tế văn hoá xã hội còn nhiều khó khăn, bệnh SR là một vấn đề sức khỏe
    ưu tiên của người dân tại cộng đồng. Đây là vùng sốt rét lưu hành rất nặng do
    tính chất phức tạp của hoạt động giao lưu biên giới, dân di cư tự do, đi rừng
    ngủ rẫy. Huyện đã được tổ chức thực hiện chương trình PCSR từ những năm
    trước cho đến nay, tuy nhiên hiện nay gặp nhiều khó khăn về kỹ thuật cũng
    như về xã hội hoá công tác PCSR, trong đó mạng lưới y tế cơ sở hoạt động 2
    chưa có hiệu quả, thực hiện chưa tốt công tác phát hiện và quản lý người
    mang KSTSR tại cộng đồng, đây là một trong ba yếu tố liên quan truyền
    nhiễm bệnh SR là: mầm bệnh, trung gian truyền bệnh và khối cảm thụ.
    Để đạt được mục tiêu chương trình PCSR ngoài những giải pháp
    chung, công tác phát hiện và quản lý người mang KSTSR tại cộng đồng nhằm
    cung cấp hệ thống phát hiện sớm, chẩn đoán bệnh sớm là rất quan trọng, đồng
    thời quản lý chặt chẽ người mang KSTSR tại cộng đồng nhằm giảm số người
    mang mầm bệnh, hạn chế được lây lan, tiến tới giảm mắc bệnh [7], [10],[11],
    [15], [23].
    Trên cơ sở đó chúng tôi tiến hành đề tài" Đánh giá thực trạng phát
    hiện và quản lý bệnh nhân sốt rét của mạng lưới y tế cơ sở tại một số xã
    biên giới huyện Ea Soup, tỉnh Đắklắk năm 2008-2009."
    Nhằm các mục tiêu nghiên cứu:
    1. Mô tả hoạt động mạng lưới y tế cơ sở (xã, thôn) trong việc phát hiện,
    quản lý bệnh nhân sốt rét tại 3 xã biên giới huyện EaSoup.
    2. Đánh giá thực trạng phát hiện, quản lý bệnh nhân sốt rét của điểm
    kính hiển vi với công tác quản lý ca bệnh tại 3 xã biên giới huyện
    EaSoup. 3
    Chương 1
    TỔNG QUAN TÀI LIỆU
    1.1. Sơ lược lịch sử phát hiện và phòng chống bệnh sốt rét thế giới
    Năm 1783 Cellesus và Columella nghiên cứu và mô tả kỹ bệnh SR này
    về mặt lâm sàng. Năm 1847 Meckel trong khi mổ những bệnh nhân bị chết vì
    sốt rét, đã thấy những sắc tố ở trong tế bào gan. Năm 1848 Wirchow đã thấy
    thêm những sắc tố ở một số tế bào của bệnh nhân SR. vì vậy lúc đó người ta
    cho rằng SR là do sắc tố gây gây nên. Đến 1880 Leveran lần đầu tiên phát
    hiện được nguyên nhân gây bệnh SR, khi quan sát mấu tươi của những bệnh
    nhân bị SR, ông đã thấy một loại trùng cử động nhúc nhích và đặt tên là
    "oscillaria malaria ". Đó chính là một thể của Plasmodium trong máu.
    Năm 1885, nhờ phát minh của Leveran và nghiên cứu thực nghiệm của
    một số tác giả (Gerhardt) đã chính thức công nhận SR là Plasmodium gây
    nên, từ đó nhiều tác giả đã tập trung nghiên cứu tìm hiểu kỹ về loại KSTSR
    chẳng những ở người mà còn ở nhiều loài động vật khác. Hiện nay, trên 120
    loài đã phát hiện ở người và sinh vật khác, trong đó có 4 loại KSTSR ở người
    là P.falciparum, P.vivax, P.malariae, P. ovale.
    Nguyên nhân truyền bệnh, từ lâu người ta đã nghi bệnh sốt rét có liên
    quan tới muỗi vì thấy bệnh thường phát triển nặng ở những vùng liên quan tới
    muỗi. 1894 Mason cũng cho rằng sốt rét là do muỗi truyền. Từ 1899- 1897
    Ross đã nghiên cứu thực nghiệm sốt rét trên người và chim sẻ đã chứng minh
    vai trò truyền bệnh của muỗi. 1901-1903 Chương trình PCSR bằng diệt bọ
    gậy ở Malaya được đề nghị bởi Malcolm. Chiến dịch PCSR bằng chống muỗi
    được thực hiện bởi Ross ở Ismailia, Ai Cập [18], [33], [34].
    1.2. Tình hình PCSR thế giới
    Do tình hình bệnh SR gia tăng và quay trở lại nhiều vùng lảnh thổ trên
    toàn thế giới, Hội nghị Bộ trưởng y tế các nước thành viên vào tháng 10/1992
    tại Amsterdam ( Hà Lan), WHO đã thông báo hàng năm trên toàn thế giới có
    khoảng gần 500 triệu người mắc bệnh, trên 1 triệu người chết, khoảng 2,2 tỷ 4
    người, chiếm 40% dân số thế giới ở trong vùng có nguy cơ mắc bệnh SR [6],
    [27], [42].
    Tình hình SR trong những năm gần đây đang trở nên nghiêm trọng chủ
    yếu tại Châu Á, Châu Phi đặc biệt tại các nước Đông Nam Á, tại khu vực này
    gặp khó khăn về kỹ thuật PCSR như KST, côn trùng kháng thuốc. Mặt khác
    dân cư sống nhiều vùng biên giới lãnh thổ của nhiều quốc gia châu Á, châu
    Mỹ tuy nguy cơ mắc SR thấp nhng công tác PCSR những nơi này đang gặp
    nhiều khó khăn vì ảnh hưởng bởi điều kiện địa lý, khí hậu, di biến động dân số,
    phát triển kinh tế, thay đổi môi trờng, chiến tranh, y tế cơ sở thiếu, hoạt động
    yếu, làm cho tình hình SR ngày càng nghiêm trọng [36], [41], [42], [44], [45].
    Các công trình nghiên cứu về SR của các nhà khoa học trong những
    năm đầu của thế kỷ XX, đã có nhiều phát minh, lần lượt làm sáng tỏ các vấn
    đề kỹ thuật liên quan đến sốt rét, xác định đựơc nguyên nhân, vật chủ trung
    gian lây truyền, thuốc điều trị sốt rét, trong đó phát minh quan trọng là đã tìm
    ra được nhiều loại thuốc SR, đã có nhiều loại thuốc sốt rét được tổng hợp như
    primaquine, pamaquine, proguanil đặc biệt là chloroquine một loại thuốc ít
    độc có thể dùng một cách rộng rãi. Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật các
    loại hoá chất diệt côn trùng được nghiên cứu và ứng dụng trong lĩnh vực nông
    nghiệp và y học, DDT được phát hiện và ứng dụng để diệt muỗi, với nồng độ
    tồn lưu có thể kéo dài, làm tăng hiệu quả xua diệt muỗi SR. Sự ra đời của
    nhiều loại thuốc điều trị SR và sử dụng DDT diệt muỗi sốt rét được sử dụng
    đồng loạt đã có tác dụng hiệu quả giảm nhanh số người mắc SR ở nhiều quốc
    gia, vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Với những kết quả đó, năm 1955 Đại hội
    đồng WHO lần thứ VIII đã đề xuất và chấp nhận chiến lược TDSR với mục
    tiêu là thanh toán SR toàn cầu [33], [34], [35], [38],[39].
    Chương trình TDSR toàn cầu được WHO đề ra được hoạch định trong
    khoảng thơì gian từ 8-10 năm, trên cơ sở đó từng quốc gia xây dựng kế hoạch
    hành động cho phù hợp với mức độ và điều kiện của riêng mình. Chương 5
    trình TDSR toàn cầu được hoạch định trong khoảng thơì gian từ 8-10 năm với
    các nội dung cơ bản như sau :
    - Đối với mần bệnh KSTSR : Sử dụng chloroquine điều trị toàn dân,
    để giảm tỷ lệ nhiễm KSTSR trong cộng đồng xuống còn 1/10.000 so với số
    lam XN.
    - Đối với vectơ truyền bệnh: Sử dụng DDT phun xua, diệt muỗi SR
    nhằm cắt đứt sự lan truyền bệnh SR.
    - Xây dựng và nâng cao năng lực mạng lưới y tế cơ sở có đủ khả năng
    giám sát, quản lý người bệnh, mầm bệnh, tổ chức điều trị tiệt căn, chống tái
    phát, chống lây lan và bảo vệ người lành.
    Trong 10 năm (1956-1965) chương trình TDSR toàn cầu đã đựơc thực
    hiện hầu hết tại các nước có SR, và đã đạt được những thành công đáng kể,
    bệnh SR ở một số quốc gia đã giảm nhiều như ở châu Âu, châu Úc, Bắc Mỹ,
    và một số nước Đông Bắc Á (Nhật Bản, Triều Tiên ) nhưng đến năm 1966 trở
    đi chương trình tiến triển chậm và có nơi SR quay trở lại như ở Srilanca, Ấn
    Độ, các nước Đông Nam Á. Từ 1979, WHO chuyển sang chiến lược PCSR
    dựa trên mà mục tiêu là giảm mắc và giảm chết do SR [20], [33], [34].
    1.3. Chiến lược PCSR toàn cầu hiện nay:
    Tháng 10, năm 1992, tại Amsterdam (Hà Lan) WHO đã tổ chức Hội
    nghị Bộ trưởng y tế các nước thành viên để thảo luận và xây dựng một chiến
    lược mới nhằm đối phó với tình hình SR đang gia tăng và quay trở lại nhiều
    nước trên thế giới, Thông qua hội nghị này chiến lược PCSR đã được quyết
    định. Mục tiêu của chương trình PCSR là giảm mắc, giảm chết do SR để hạn
    chế ảnh hưởng thiệt hại về sức khoẻ, kinh tế của cộng đồng [6], [42].
    Dựa trên điều kiện cụ thể của từng quốc gia, vùng lãnh thổ để xây dựng
    chương trình PCSR cho phù hợp và hiệu quả. WHO đề ra các hoạt động cơ
    bản của chương trình PCSR toàn cầu như sau [42] 6
    - Quản lý bệnh SR : Chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời là nền tảng của
    PCSR, cung cấp các phương tiện chẩn đoán, đào tạo xét nghiệm viên, đồng
    thời cung cấp các loại thuốc chống kháng cho những vùng có kháng thuốc.
    - Dự phòng bệnh SR : Bảo vệ phòng chống nhiễm bệnh SR bao gồm
    các biện pháp dự phòng cá nhân (quần áo, màn tẩm .),
    - Phòng chống vector : Bao gồm sử dụng hóa chất phun tồn lưu, diệt bọ
    gậy .
    - Phòng chống dịch một cách chủ động, hạn chế thiệt hại do dịch SR
    gây ra.
    1.4. Những khó khăn của công tác PCSR hiện nay:
    - Khó khăn về chuyên môn kỹ thuật: Từ 1960 khi P.falciparum kháng
    chloroquine được công bố tại Nam Mỹ (Brasil), Thái Lan, Việt Nam . thì
    hiện tượng P.falciparum kháng chloroquine lan rộng ngày càng nhanh. Muỗi
    Anopheles kháng hóa chất, thay đổi sinh lý sinh thái, trú ẩn ngoài nhà nhưng
    đốt máu trong nhà. Về kháng hóa chất của muỗi Anopheles, 1946 chỉ có 2
    loài Anopheles kháng DDT nhưng 1991 có 55 loài kháng hóa chất [18], [19],
    [20], [27].
    - Khó khăn về kinh tế, xã hội, tài chính : Do thiên tai, dịch bệnh, chiến
    tranh, và nền sản xuất chậm phát triển ở những quốc gia có SR, đặc biệt là ở
    các nước chậm phát triển và đang phát triển đã khiến thu nhập của nhiều quốc
    gia còn rất thấp, thiếu kinh phí cho PCSR.
    - Hệ thống y tế, đặc biệt y tế cơ sở còn thiếu và yếu, cán bộ làm công
    tác vệ sinh phòng dịch - PCSR địa phương không đủ về số lượng và chưa đạt
    về chất lượng. Đối với bệnh SR cán bộ y tế cơ sở còn nhiều khó khăn trong
    chẩn đoán và điều trị, chỉ dựa chủ yếu vào triệu chứng lâm sàng để chẩn đoán,
    không có xét nghiệm (XN) hoặc XN chưa kịp thời để phát hiện KSTSR trong
    máu của bệnh nhân, đặc biệt khi gặp những trường hợp bệnh SR có triệu
    chứng lâm sàng không điển hình thì rất khó khăn trong việc chẩn đoán và ra
    quyết định điều trị . 7
    - Kinh tế của nhiều quốc gia còn nghèo, thu nhập bình quân của người
    dân còn thấp, môi trường sinh thái thay đổi do chiến tranh, di biến động dân
    cư, du lịch, du canh du cư của đồng bào các dân tộc, khai thác lâm khoáng sản
    được đầu tư thực hiện ở nhiều vùng, nhất là ở các nước đang phát triển, nhưng
    việc thực hiện các biện pháp PCSR chưa được chủ động, kém hiệu quả làm
    cho tình hình SR càng thêm nghiêm trọng do đó bệnh SR đã quay trở lại tại
    nhiều vùng lãnh thổ của nhiều quốc gia trên thế giới.
    1.5. Công tác PCSR tại Việt Nam:
    Việt Nam ở trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, thuộc Đông Nam á,
    đa số diện tích là rừng, núi đồi có điều kiện thuân lợi cho bệnh SR phát triển,
    có nhiều địa phương ở trong vùng sốt rét lưu hành (SRLH). Trong chiến lược
    TDSR toàn cầu, chương trình TDSR đã được tiến hành ở miền Bắc và diệt trừ
    SR tại miền Nam từ 1958-1975. Sau ngày miền nam được giải phóng, cả
    nước thống nhất tiến hành thanh toán SR từ 1976-1990 và chuyển sang chiến
    lựơc PCSR từ năm 1991 cho đến nay.
    Trong giai đoạn từ 1991 đến nay: Trước tình hình SR quay trở lại và
    tăng cao trong cả nước, đặc biệt ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên, chương
    trình PCSR được thực hiện ở Việt Nam với mục tiêu là giảm mắc, giảm chết
    và giảm vụ dịch SR, với việc tích cực tổ chức thực hiện các biện pháp phát
    hiện, chẩn đoán và điều trị được xem là quan trọng để giảm tử vong, thì PCSR
    được xem là 1 nhiệm vụ CSSKBĐ của y tế cơ sở, vì vậy xây dựng, củng cố y
    tế cơ sở, huấn luyện cho y tế cơ sở về SR được xem là một nhiệm vụ rất quan
    trọng để đạt được các mục tiêu của chương trình PCSR trong giai đoạn hiện
    nay [18], [20], [31], [32].
    1.6. Tình hình sốt rét tại huyện Ea soup.
    Huyện Ea Soup là một huyện miền núi, có trên 20 km đường biên giới
    với Cambodia. Huyện gồm có 7 xã và 1 thị trấn, tất cả đều nằm trong vùng
    SRLH. Công tác PCSR tại huyện được tiến hành qua các giai đoạn như công
    tác PCSR chung tại Việt Nam, nhưng hiện nay còn gặp nhiều khó khăn: Địa 8
    bàn đa số là núi đồi, rừng, nhiều sông suối, giao thông đi lại khó khăn. Trên 40
    % dân số là đồng bào dân tộc Ê đê, Tày, Nùng, Thái; đời sống kinh tế văn hoá,
    xã hội còn nhiều khó khăn, mức sống dân cư còn thấp so với các vùng khác.
    Mạng lưới y tế cơ sở còn yếu về chuyên môn, thiếu về số lượng. Di
    biến động dân số cơ học lớn do tăng lượt người vào rừng khai thác lâm
    khoáng sản, giao lưu biên giới không thể kiểm soát được .
    Trong những năm trước đây và hiện nay huyện đã thực hiện công tác
    phun hoá chất và tẩm màn bằng Permethrime mỗi năm từ 1 đợt kết hợp với
    cấp thuốc tự điều trị SR theo đối tượng nguy cơ đã góp phần làm cho tình
    hình nhiễm bệnh SR ổn định.
    Tuy công tác PCSR trên địa bàn của huyện đã đạt được một số kết quả
    nhất định, nhưng tình hình mắc SR, tỷ lệ KSTSR giữa các xã trong huyện có
    nhiều khác biệt, diễn biến phức tạp. Số người mắc, và tỷ lệ người nhiễm
    KSTSR còn tăng (năm sau cao hơn năm trước). Các yếu tố liên quan đến công
    tác phát hiện và quản lý người mang KSTSR tại cộng đồng còn nhiều vấn đề
    chưa được nghiên cứu như hoạt động của mạng lưới y tế cơ sở, sự tham gia
    của người dân, các yếu tố sẵn có, yếu tố tiếp cận, yếu tố sử dụng, yếu tố sử
    dụng đủ, yếu tố sử dụng tốt . Đây chính là vấn đề mà luận văn quan tâm và đề
    cập đến.
    1.7. Hệ thống phát hiện và quản lý người ca bệnh tại Việt Nam và tại
    huyện Ea soup.
    1.7.1. Hệ thống phát hiện và quản lý người mang KSTSR tại Việt nam:
    Công tác phát hiện và quản lý người mang KSTSR tại cộng đồng được
    xem là một biện pháp quan trọng của chương trình PCSR quốc gia. Nhưng
    năm trước chưa có nhân viên y tế thôn bản (YTTB), công tác phát hiện và
    quản lý người mang KSTSR chủ yếu dựa vào cán bộ y tế huyện, xã, cộng tác
    viên PCSR tại một số địa phương. Tuy đã có tổ chức nhưng chủ yếu là thực
    hiện công tác phun tẩm hoá chất PCSR, thông qua các đợt giám sát dịch tễ
    SR, một số thôn trọng điểm được chọn lấy lam máu XN hàng loạt để xác định 9
    tỷ lệ KSTSR. Những năm gần đây công tác phát hiện và quản lý người mang
    KSTSR tại cộng đồng được thực hiện bởi sự phối hợp của cán bộ y tế huyện,
    xã và thôn, trong đó YTTB bước đầu góp phần vào công tác phòng chống sốt
    rét vì là tuyến y tế cơ sở gần với người dân nhất, thuận lợi để người dân tiếp
    cận khi có nhu cầu. Các biện pháp được thực hiện đồng bộ, hoạt động tích
    cực của YTTB, xã, và hoạt động hiệu quả của điểm kính hiển vi XN KSTSR,
    đồng thời thực hiện giám sát và quản lý bệnh nhân sốt rét: BNSR lâm sàng,
    bệnh nhân có KSTSR, người mang KST lạnh và các đối tượng nguy cơ dễ
    nhiễm SR [3], [7], [24].
    1.7.2. Tại huyện Ea soup.
    Trong những năm trước đây các biện pháp phát hiện và quản lý người
    mang KSTSR tại cộng đồng chủ yếu dựa vào cán bộ y tế xã và huyện, YTTB
    lúc đó mới được tổ chức nhưng khả năng còn hạn chế, chưa tham gia nhiều
    vào các hoạt động của công tác PCSR.
    Các biện pháp phát hiện và quản lý người mang KSTSR tại cộng đồng
    lúc đó được tiến hành theo từng đợt, chủ yếu là do cán bộ y tế huyện phối hợp
    với cán bộ y tế xã về các thôn trọng điểm thực hiện giám sát dịch tễ SR, trong
    đó có thực hiện điều tra BNSR lâm sàng và lấy lam máu hàng loạt XN để xác
    định tỷ lệ KSTSR, các điểm kính hiển vi xã, thôn chưa hoạt động.
    Những năm gần đây màng lưới YTTB được tăng cường tập huấn.
    Trung tâm y tế huyện tổ chức thực hiện Quyết định số: 2442/1997 của Bộ
    Trưởng Bộ Y Tế " Về việc ban hành qui định giám sát dịch tễ sốt rét " công
    tác giám sát dịch tễ SR nói chung trong đó có nội dung giám sát thực hiện các
    biên pháp phát hiện và quản lý người mang KSTSR tại cộng đồng được triển
    khai thực hiện về tận YTTB, các điểm kính hiển vi được tổ chức và đi vào
    hoạt động, biện pháp giám sát phát hiện, quản lý người có nguy cơ mắc bệnh
    SR, BNSR lâm sàng, BNSR có KSTSR, đã được thực hiện bởi mạng lưới y tế
    cơ sở cả 3 tuyến huyện, xã và thôn, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân khác
    nhau, hiện nay công tác phát hiện và quản lý người mang KSTSR tại cộng 10
    đồng còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ người mang KSTSR tại cộng đồng chưa
    ổn định, số người mắc SR còn gia tăng [2].
    + Nhân viên y tế thôn bản trong phát hiện và quản lý người mang
    KSTSR:
    Theo quyết định số 3653/199/QĐ-BYT ngày 15 tháng 11 năm 1999
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...