Tài liệu Đánh giá năng suất và khả năng chống chịu sâu bệnh của các dòng triển vọng trong tập đoàn quan sát v

Thảo luận trong 'Hóa Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Đánh giá năng suất và khả năng chống chịu sâu bệnh của các dòng triển vọng trong tập đoàn quan sát vụ mùa năm 2002, tại Thanh Trì, Hà Nội
    Phần I
    Mở đầu

    1.1. Đặt vấn đề

    Lúa (Oryza satival) là một trong ba cây lương thực chính của loài người, cung cấp lương thực cho gần 1/2 dân số thế giới nhất là vùng Đông Nam Á.
    Việt Nam là một nước có nền kinh tế nông nghiệp dựa trên sản xuất lúa. Sản xuất lúa đă ảnh hưởng tới mọi lĩnh vực sống ở nông thôn. Lúa được gieo trồng trên diện tích 7,1 triệu ha chiếm hơn 80% diện tích đất trồng trọt. Lúa gạo đă cung cấp 80% nhu cầu Cacbonhyđrat và 40% đạm trung b́nh của người dân Việt Nam.
    Trong thập kỷ vừa qua, nghề trồng lúa ở Việt Nam đă có bước nhảy vọt đáng kể. Sản lượng lúa đă tăng từ 10,7 triệu tấn năm 1970 lên 32,554 triệu tấn năm 2000, năng suất tăng từ 2,3 lên 4,25 tấn/ha. Nh­ vậy từ một nước thiếu lương thực, đói triền miên, Việt Nam đă vươn lên không chỉ tự túc lương thực mà c̣n dư thừa để xuất khẩu đứng thứ hai sau Thái Lan, năm 2000 xuất khẩu 4 triệu tấn gạo.
    Tuy nhiên sản xuất lúa gạo ở Việt Nam c̣n nhiều thách thức trong chiến lược an toàn lương thực, trong sự đa dạng sinh học của một nền nông nghiệp bền vững.
    Đứng trước thách thức lớn đối với sản xuất lương thực nếu chỉ sử dụng giống lúa cổ truyền năng suất thấp th́ không thể đáp ứng được nhu cầu lương thực ngày càng cao của nhân loại.
    Các nhà khoa học đă thực hiện nhiều phương pháp khác nhau như lai tạo, gây đột biến, chọn lọc . giống mới có năng suất cao, ổn định, chống chịu tốt với sâu bệnh, thích ứng rộng với nhiều vùng và đạt tiêu chuẩn về chất lượng thương phẩm và chất lượng dinh dưỡng.
    Bộ môn nghiên cứu chọn tạo giống lúa thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam trong những năm gần đây đă nỗ lực phấn đấu nghiên cứu lai tạo và đă thành công nhiều ḍng, giống triển vọng. Để t́m ra được những giống thích hợp cho mùa vụ, vùng sinh thái chúng tôi thực hiện đề tài:
    “ Đánh giá năng suất và khả năng chống chịu sâu bệnh của các ḍng triển vọng trong tập đoàn quan sát vụ mùa năm 2002, tại Thanh Tŕ, Hà Nội”.

    1.2. Mục đích - yêu cầu
    1.2.1. Mục đích
    1.2.1.1. Đánh giá đặc điểm sinh trưởng, phát triển, khả năng cho năng suất và chống chịu của các ḍng nhằm chọn ra các ḍng có triển vọng đưa vào thí nghiệm so sánh.
    1.2.1.2. Chọn ḍng, giống thích hợp với điều kiện sinh thái vụ mùa ở đồng bằng sông Hồng.
    1.2.2. Yêu cầu
    1.2.2.1. Khảo sát, đánh giá sinh trưởng, phát triển, năng suất và khả năng chống chịu sâu bệnh của các ḍng triển vọng để đưa vào khảo nghiệm giống quốc gia.
    1.2.2.2. Đánh giá một số đặc tính h́nh thái và tiềm năng năng suất của các ḍng tham gia thí nghiệm.










    PHẦN II
    TỔNG QUAN TÀI LIỆU

    2.1. T́nh h́nh nghiên cứu lúa trên thế giới và Việt Nam
    Cây lúa là một trong những cây lương thực có lịch sử trồng trọt lâu đời nhất. Nó đă được nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm và nghiên cứu.
    2.1.1. Sơ lược về nguồn gốc cây lúa
    Theo Decaudolle A.f, Rojevich RI cho rằng lúa xuất hiện đầu tiên ở Ên Độ [1].
    Ramiah K cho lúa là cây có nhiều h́nh dạng và nhiều loại h́nh ở nơi phát nguồn. V́ vậy, hiện nay ở Đông Nam Á, Ên Độ, Trung Quốc, Đông Dương mới có nhiều giống lúa.
    Theo tài liệu công bố của Chowdhury và Ghosh năm 1953 th́ những hạt thóc hoá thạch cổ nhất của Trung Quốc thấy ở Hasthinapur (Uttar Pradesh) ước tính vào khoảng 1000 - 750 trước công nguyên [20].
    Có ư kiến cho rằng cây lúa được h́nh thành đầu tiên ở Tây Bắc Ên Độ, Nam Trung Quốc, Việt Nam .
    Makkey E. cho biết vết tích lúa xưa nhất thấy ở Ên Độ trên một số mảnh đồ gốm ở những di chỉ đào thấy ở Penjad. Những mảnh đồ gốm này có lẽ là của các bộ lạc sống cách đây khoảng 2000 năm [20].
    Tuy nguồn gốc xuất xứ có khác nhau nhưng ta cũng thấy những vùng trên đều có đặc điểm giống nhau là điều kiện khí hậu nhiệt đới nóng Èm phù hợp với cây lúa [13].
    2.1.2. Thời gian sinh trưởng
    Thời gian sinh trưởng của một cây lúa được tính từ khi gieo mạ đến khi lúa chín và thu hoạch. Các giống lúa khác nhau có thời gian sinh trưởng khác nhau, thời gian sinh trưởng của lúa thường từ 100 - 200 ngày. Ngoài ra, thời gian sinh trưởng c̣n phụ thuộc vào thời vụ, thời gian cấy và kỹ thuật canh tác.
    Theo Bùi Huy Đáp [8]: Thời gian sinh trưởng quá ngắn không đủ cho cây lúa đẻ nhánh, thời gian sinh trưởng quá dài làm cho cây lúa ra nhiều lá, lá dưới bị che khuất lẫn nhau về ánh sáng, thiếu dinh dưỡng, thời gian sinh trưởng thích hợp sẽ có số nhánh và diện tích quang hợp cao dẫn tới năng suất cao.
    Căn cứ vào thời gian sinh trưởng Viện lúa quốc tế IRRI và một số tác giả đă chia ra:
    - Nhóm cực ngắn: £ 90 ngày.
    - Nhóm ngắn ngày: 90 - 120 ngày.
    - Nhóm trung b́nh: 121 - 150 ngày.
    - Nhóm dài ngày: > 150 ngày.
    Kaxono Tanaka [22] cho rằng giống có thời gian sinh trưởng quá ngắn không thể cho năng suất cao v́ sinh trưởng sinh dưỡng bị hạn chế, các giống có thời gian sinh trưởng quá dài cũng không thể cho năng suất cao v́ sinh trưởng dinh dưỡng quá thừa, có thể gây lốp đổ làm ảnh hưởng đến năng suất.
    Đinh Văn Lữ [14] cho rằng toàn bộ đời sống của cây lúa có thể chia ra làm hai thời kỳ sinh trưởng chủ yếu là sinh trưởng dinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực.
    - Thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng: tính từ lúc gieo đến lúc làm đ̣ng. Thời kỳ này cây lúa chủ yếu h́nh thành và phát triển các cơ quan dinh dưỡng như tăng chiều cao cây, ra lá, đẻ nhánh, phát triển rễ.
    - Thời kỳ sinh trưởng sinh thực: là thời kỳ phân hoá, h́nh thành các cơ quan sinh sản bắt đầu từ lúc làm đ̣ng cho đến khi thu hoạch. Bao gồm quá tŕnh làm đ̣ng, trỗ bông, h́nh thành bông.
    Tóm lại: Nắm được quy luật sinh trưởng của cây lúa là cơ sở để chúng ta có thể chủ động xác định thời vụ gieo cấy, áp dụng biện pháp kỹ thuật để tạo năng suất cao.
    2.1.3. Đặc điểm h́nh thái của cây lúa
    2.1.3.1. Rễ lúa
    Rễ lúa là một bộ phận quan trọng có nhiệm vụ hút nước và dinh dưỡng cung cấp cho sù sinh trưởng và phát triển của cây. Rễ lúa c̣n giúp cho cây đứng vững trong đất.
    Togari và Matsuo [18] nghiên cứu tỷ lệ dài rễ/cao thân thấy tỷ lệ này cao nhất ở thời kỳ mạ.
    - Đầu thời kỳ mạ tỷ lệ này lớn hơn 1.
    - Cuối thời kỳ mạ tỷ lệ này bằng 1.
    Santo cho biết: Bộ rễ lúa có thể đạt 500 - 800 rễ. Số rễ lúa tăng mạnh nhất là từ lúc đẻ nhánh đến khi nhánh đẻ tối đa và đạt tối đa vào thời kỳ trỗ (800 cái). Giai đoạn này tổng chiều dài của rễ có thể đạt đến 168m. Sau khi trỗ hầu nh­ rễ không tăng nữa, phạm vi hoạt động của rễ chủ yếu ở lớp đất 0 - 20 cm.
    Theo Đinh Dĩnh (1932) [26] cho biết góc làm bởi trục thẳng đứng qua thân với hướng đi của rễ 44% có góc lớn hơn 50% và 56% rễ có góc nhỏ hơn 54%. Nh­ vậy, sự phân bố rễ là gần mặt đất. Tác giả c̣n cho biết: Các giống chịu hạn là những giống có bộ rễ hẹp phân bố sâu xuống hơn. Tác giả dùng 35 giống lúa cạn và lúa nước trồng trong điều kiện nước để t́m liên hệ của bộ rễ, thân, lá phát hiện thấy: Trong thời kỳ đẻ nhánh tối đa th́ giữa số nhánh và số rễ có liên quan mật thiết với nhau, sau đó là sự liên hệ giữa chiều cao và chiều dài rễ. Thời kỳ chín, mối liên hệ này kém dần nhưng vẫn có mối quan hệ rơ rệt giữa trọng lượng thân lá và trọng lượng rễ.
    Căn cứ vào sự phát triển của các bộ phận trên mặt đất và nắm được sự sinh trưởng phát triển của bộ rễ, từ đó có các biện pháp kỹ thuật tác động thích hợp như làm đất, tưới tiêu nước, bón phân, chăm sóc để tạo điều kiện cho bộ rễ phát triển tốt, đạt năng suất cao.
    2.1.3.2. Thân lúa
    Thân lúa được phát triển từ trục phôi. Thời kỳ sinh trưởng sinh dưỡng, thân lúa là thân giả do bẹ lá tạo thành. Từ thời kỳ làm đốt trở đi thân lúa mới h́nh thành. Thân lúa được h́nh thành, cấu tạo bởi nhiều lóng và đốt. Số lóng kéo dài và chiều dài lóng sẽ quyết định chiều cao cây.
    Theo Đinh Văn Lữ [14] số lóng trên thân phụ thuộc vào giống. Các giống có thời gian sinh trưởng dài thường có 6 - 7 lóng, giống ngắn ngày có 4 - 5 lăng.
    Theo nhà nghiên cứu lúa ở Anh và Pháp [2] chia chiều cao cây lúa theo số lượng lóng trên thân chính:
    - Giống cao cây: > 6 lăng.
    - Giống trung b́nh: 5 - 6 lăng.
    - Giống thấp cây: < 5 lăng.
    Theo Đinh Văn Lữ [14] trên thân những lóng dưới gốc thường ngắn, có đường kính lớn, càng lên trên lóng càng dài và đường kính nhỏ dần.
    Số lóng trên thân và số đốt đă quyết định chiều cao cây và có liên quan đến khả năng chống đổ của cây lúa.
    Simetanhin A.T [6] cho rằng có hai nguyên nhân chính gây hiện tượng lúa đổ:
    - Đổ do thân: do cây lúa cao, đường kính lóng gốc nhỏ, các lóng gốc dài, mô sợi lỏng lẻo.
    - Đổ do rễ: do bộ rễ lúa kém phát triển, rễ ăn nông.
    Theo R.L. Mghose [6]: Lúa đổ vào lúc trỗ giảm 60% năng suất, lúa đổ trước lúc thu hoạch giảm 15% năng suất.
    Tóm lại: Tính chống đổ là chỉ tiêu khá quan trọng trong công tác chọn tạo giống. Trong sản xuất để tránh hiện tượng lốp đổ và cho năng suất cao th́ từng điều kiện thâm canh và điều kiện đất đai của địa phương mà chọn giống phù hợp. Thường giống có khả năng chống đổ tốt là giống thấp cây, thân cứng, lóng gốc ngắn, đường kính lớn, bẹ lá đứng. Kết hợp biện pháp thâm canh như cấy mật độ hợp lư, bón phân NPK cân đối, giữ nước, tháo nước thích hợp.
    2.1.3.3. Đẻ nhánh
    Nhánh lúa được h́nh thành và phát triển từ các mầm nhánh ở gốc thân. Nhánh là một trong những yếu tố cấu thành nên năng suất và góp phần trong việc nâng cao năng suất. Đẻ nhánh là một đặc tính sinh học có ư nghĩa quyết định tới năng suất.
    Sau khi bén rễ hồi xanh lúa bước vào thời kỳ đẻ nhánh và kết thúc khi làm đốt, làm đ̣ng. Thời gian này dài hay ngắn tuỳ thuộc vào giống và biện pháp kỹ thuật. Khả năng đẻ nhánh tuân theo mét quy luật chung.
    Theo Đinh Văn Lữ [14]: Thời gian đẻ nhánh phân ra làm hai thời kỳ là đẻ nhánh hữu hiệu và đẻ nhánh vô hiệu. Thời gian đẻ nhánh hữu hiệu thường tập trung vào thời kỳ đầu đẻ nhánh, sau thời gian đẻ nhánh hữu hiệu là thời gian đẻ nhánh vô hiệu, nhánh không có khả năng h́nh thành bông.
    Bùi Huy Đáp cho rằng [4] những giống đẻ khoẻ, góc độ đẻ nhánh lớn th́ mật độ cấy thưa và nhỏ, ngược lại giống đẻ Ưt và góc đẻ nhánh nhỏ th́ mật độ cấy dày hơn để đảm bảo số bông trên đơn vị diện tích. Theo ông nhánh hữu hiệu là những nhánh đẻ trước và có thời gian sinh trưởng tương đối dài và điều kiện dinh dưỡng đầy đủ, những nhánh đẻ về sau thiếu dinh dưỡng, sớm bước vào thời kỳ sinh trưởng sinh thực, tích luỹ không đầy đủ nên hay bị bông nhỏ Ưt hạt.
    Đinh Văn Lữ [13] nhận xét: Cây lúa đẻ lai rai, quần thể sẽ không đều, lúa chín không cùng một thời điểm từ đó việc thu hoạch gặp khó khăn và năng suất thấp.
    Góc độ đẻ nhánh là một đặc tính của giống Ưt bị ảnh hưởng bởi điều kiện ngoại cảnh và có liên quan đến mật độ gieo cấy.
    Yosida [22] nghiên cứu góc độ đẻ nhánh cho thấy lúa đẻ nhánh chụm cho phép ánh sáng xuyên sâu hơn đẻ nhánh x̣e do đó làm tăng diện tích quang hợp của cây lúa.
    Xu hướng hiện nay của các nhà khoa học nông nghiệp là chọn ra những giống đẻ khoẻ, đẻ tập trung, đẻ nhánh gọn.
    2.1.3.4. Lá lúa
    Lá lúa là cơ quan quan trọng tồn tại trong suốt quá tŕnh sống của cây lúa, nó làm nhiệm vụ quang hợp để tổng hợp Hyđratcacbon. Lá lúa màu sẫm, dày th́ hấp thụ ánh sáng tốt hơn, cường độ quang hợp cao. Lá đứng thẳng làm giảm sự che lấp ánh sáng của các tầng lá phía dưới. Lá lúa thể hiện sức sống của cây lúa. Cây lúa sinh trưởng phát triển b́nh thường th́ lá to, khoẻ, lá phát triển cân đối, tốc độ ra lá nhanh, tuổi thọ của lá dài. Muốn có hiệu suất quang hợp cao, cây trồng cần có bộ lá tốt, phát triển cân đối và không có sâu bệnh hại.
    Lá lúa được h́nh thành và phát triển từ mầm lá ở mắt thân. Lá lúa là cơ quan chủ yếu thực hiện quang hợp của cây, 95% trọng lượng chất khô là do quang hợp tạo nên, chỉ có 5% trọng lượng chất khô là do quá tŕnh hấp thu dinh dưỡng trong đất.
    Theo các tác giả: giống ngắn ngày thường có 12 - 15 lá.
    giống trung ngày có 16 - 18 lá.
    giống dài ngày có 20 - 21 lá.
    Bùi Huy Đáp [1] cho rằng: Giống cao cây thường nhiều lá, lá dài, cong nên dễ cớm nhau và khó đạt được chỉ số diện tích lá cao mà Ưt ảnh hưởng đến năng suất quang hợp.
    Tanaka [22] cho rằng: Lá đứng và tương đối ngắn sẽ làm giảm hiện tượng che cớm lẫn nhau và làm cho sử dụng ánh sáng hiệu quả cao.
    Yosida [22] c̣ng cho rằng lá đứng cho phép sử dụng ánh sáng xuyên sâu hơn từ đó diện tích quang hợp tăng, kết quả là tăng hiệu suất quang hợp của cây.
    Bùi Huy Đáp [4] khẳng định những giống có diện tích lá lớn dễ cho năng suất cao hơn những giống có diện tích lá nhỏ.
    Tannae và Musata [19] nhận xét rằng: Những ruộng lúa có năng suất cao thường là những ruộng lúa có tích luỹ chất khô sau trỗ cao, đó là những ruộng lúa khi chín lá c̣n xanh hoặc hơi vàng.
    Đào Thế Tuấn [9] cho biết muốn có sản lượng chất khô cao trước hết phải có chỉ số diện tích lá cao trong một thời gian dài, tức là có thế năng quang hợp cao.
    Theo Tsunoda [9] từ lá thứ 8 trở lên tích luỹ chất dinh dưỡng sẽ trở về bông nuôi hạt, từ lá thứ 8 trở xuống tích luỹ dinh dưỡng nuôi rễ, thân, lá và nhánh. Lá đ̣ng và hai lá sát lá đ̣ng cung cấp 2/3 dinh dưỡng cho bông.
    Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Trâm [23] cho rằng lá đ̣ng và hai lá giáp lá đ̣ng có thời gian hoạt động từ 45 - 50 ngày, các lá xuất hiện trước có thời gian hoạt động ngắn dần.
    Các ư kiến đều cho rằng bộ lá xanh, dày, khoẻ, hướng lá thẳng, chỉ số diện tích lá cao, khả năng hấp thụ ánh sáng tốt sẽ có hiệu suất quang hợp cao.
    2.1.3.5. Bông và hạt
    Bông và hạt là hai bộ phận quan trọng tạo nên năng suất lúa.
    Đào Thế Tuấn [9] cho rằng loại h́nh nhiều bông, số bông là yếu tố quyết định năng suất và đối với loại h́nh to bông th́ năng suất do trọng lượng bông quyết định.
    Ông c̣n cho rằng những giống to bông cho năng suất thấp hơn giống nhiều bông.
    Theo Vũ Tuyên Hoàng, Luyện Hữu Chỉ [11] giống lúa bông to, hạt nhiều dễ cho năng suất cao.
    Bùi Huy Đáp [1] nhận xét: Các giống lúa cao cây, rạ to, đẻ Ưt thường bông dài, những giống lúa rạ nhỏ, đẻ nhiều, bông thường ngắn.
    Theo ông: Bông thường có một số hạt lép, tỷ lệ này thay đổi tùy giống và điều kiện ngoại cảnh. Kỹ thuật chăm sóc bón phân đón nuôi đ̣ng có tác động lớn đến giai đoạn làm đ̣ng, trổ bông, nở hoa phơi màu.
    Tóm lại: Để tạo năng suất cao ngoài xác định mật độ cấy, biện pháp kỹ thuật mà c̣n phải chú ư đến giống, cần chọn giống thấp cây, bông dài, nhiều bông và hạt để cho năng suất cao.
    2.1.4. Năng suất và yếu tố cấu thành năng suất
    Năng suất là chỉ tiêu đánh giá cuối cùng của một giống tốt hay xấu. Một giống lúa tốt phải có năng suất cao và ổn định. Năng suất của một giống do nhiều yếu tố quyết định: số bông trên đơn vị diện tích, số hạt trên bông, tỷ lệ hạt chắc và khối lượng 1000 hạt. Các yếu tố này được h́nh thành trong thời gian khác nhau, có những quy luật khác nhau song chúng lại có mối quan hệ ảnh hưởng lẫn nhau.
    Theo Yosida [22]: Nếu coi sự đóng góp của tất cả các yếu tố tới năng suất lúa là 100% (không kể sai số) th́ số bông có thể đóng góp 74% năng suất c̣n 26% là do sự đóng góp của tỉ lệ hạt chắc và khối lượng hạt. Nh­ vậy, số bông trên đơn vị diện tích là yếu tố chính quyết định đến năng suất lúa.
    Nguyễn Thị Trâm nhận xét (1981 - 1983) [23]: Tương quan giữa năng suất và số bông trên khóm ở các giống lúa khác nhau là khác nhau. ở nhóm bán lùn mối tương quan này là chặt nhất (R = 0,85), sau đó đến nhóm lùn (R = 0,62), thấp nhất là nhóm cao cây (R = 0,54).
    Mối tương quan giữa năng suất và số hạt trên cây th́ ngược lại tương quan trên, nhóm cao cây có tương quan cao nhất (R = 0,96), nhóm lùn (R = 0,66), thấp nhất là nhóm bán lùn (R = 0,62).
    Để tăng năng suất lúa, xu hướng hiện nay của các nhà chọn giống là chọn những giống có số bông nhiều, to bông trên một đơn vị diện tích.
    2.1.5. Tính chống chịu sâu bệnh
    Mét trong những yếu tố làm giảm năng suất và sản lượng lúa gạo là sâu bệnh. Sâu bệnh có thể làm thất thu hàng triệu tấn thóc trong mỗi mùa vụ. Chính v́ vậy tính chống chịu sâu bệnh được coi là chỉ tiêu quan trọng trong công tác chọn tạo giống.
    Adresdartnak, 1976 khi nghiên cứu về sâu đục thân cho biết: Tính chống chịu sâu của giống lúa tốt khi giống đó có lá to, lá có nhiều lông, bẹ lá ôm chặt kín thân.
    Trần Như Nguyên, Luyện Hữu Chỉ [6] cho rằng: Tính chống chịu sâu bệnh phụ thuộc vào bản chất di truyền của giống.
    Okamito và Abe cho thấy lúa có thân cao, đẻ khoẻ, lá dài rộng mẫn cảm với sâu đục thân.
    Vũ Tuyên Hoàng, Luyện Hữu Chỉ [2] cho rằng tính chống chịu sâu bệnh được quyết định bởi đặc tính sinh lư, sinh hoá của giống có liên quan đến h́nh dạng của cây.
    Tiếp thu được những thành quả nghiên cứu của thế giới, trong những năm gần đây công tác chọn tạo giống chống chịu sâu bệnh của nước ta không ngừng được đẩy mạnh. Kết quả đă tạo được một số giống có khả năng cho năng suất cao, chống chịu sâu bệnh tốt đáp ứng được nhu cầu cho con người.

    2.2. Điều kiện sinh thái
    2.2.1. Nhiệt độ
    Nhiệt độ có tác động mạnh mẽ đến sinh trưởng phát triển của cây lúa. Các giống lúa khác nhau phản ứng khác nhau với nhiệt độ.
    Theo Trần Đức Hạnh, Văn Tất Huyên, Trần Quang Té [24] nhiệt độ tối thấp giai đoạn mạ là 12[SUP]0[/SUP]C, giai đoạn trỗ bông là 17[SUP]0[/SUP]C.
    Theo T.S Nguyễn Văn Hoan [25] cây lúa ôn đới yêu cầu tổng nhiệt độ 2500 - 3000[SUP]0[/SUP]C. Lúa nhiệt đới yêu cầu 3500 - 4500[SUP]0[/SUP]C. Giống dài ngày cần trên 5000[SUP]0[/SUP]C, giống ngắn ngày yêu cầu tổng nhiệt độ thấp hơn 2500 - 3000[SUP]0[/SUP]C.
    Theo các tác giả Nguyễn Hữu Tề, Hà CôngVượng, Nguyễn Đ́nh Giao, Nguyễn Thiện Huyên [3] cây lúa yêu cầu nhiệt độ khác nhau qua các thời kỳ sinh trưởng. Nhiệt độ tối thích cho quá tŕnh nảy mầm là 30 - 35[SUP]0[/SUP]C, thời kỳ mạ là 25 - 30[SUP]0[/SUP]C, đẻ nhánh làm đ̣ng 25 - 32[SUP]0[/SUP]C, trỗ bông và làm hạt là 28 - 30[SUP]0[/SUP]C. Nếu nhiệt độ quá cao hay quá thấp sẽ ảnh hưởng đến sinh trưởng, phát triển của cây.
    Để lúa đạt năng suất cao phải dựa vào điều kiện khí hậu thời tiết từng vùng, từng vụ trong năm mà bố trí thời vụ gieo cấy cho hợp lư để lúa sinh trưởng, phát triển tốt.
    2.2.2. Ánh sáng
    Ánh sáng ảnh hưởng đến cây lúa qua hai mặt: Cường độ ánh
     
Đang tải...