Tiểu Luận đánh giá môi trường theo hướng hệ thống quản lý môi trường trong nông nghiệp úc để đạt được kết quả

Thảo luận trong 'Nông - Lâm - Ngư' bắt đầu bởi Quy Ẩn Giang Hồ, 26/3/14.

  1. Quy Ẩn Giang Hồ

    Quy Ẩn Giang Hồ Administrator
    Thành viên BQT

    Bài viết:
    3,084
    Được thích:
    23
    Điểm thành tích:
    38
    Xu:
    0Xu
    Tóm tắt:

    Hệ thống quản lý môi trường (EMS) đang áp dụng trong ngành nông nghiệp cũng như xã hội của Úc, trở nên liên quan với môi trường nông nghiệp. EMS là một cách tiếp cận có cấu trúc được sử dụng bởi các doanh nghiệp trang trại để đánh giá, giám sát, và cải thiện hiệu suất môi trường. EMS sử dụng kết hợp với các công cụ chính sách khác (như ưu đãi về tài chính và quy định) trong nông nghiệp có thể tăng cường quản lý của cả nông nghiệp và phi nông các vấn đề môi trường. Dựa trên tiêu chuẩn quốc tế ISO14001, EMS được thiết kế để áp dụng ở cấp độ kinh doanh cá thể. Tuy nhiên, chính phủ Úc đang khai thác tiềm năng của nó được áp dụng quản lý môi trưòng sinh thái, cũng như trong một số lểnh vực khác, với mục đích liên kết các trang trại hành động cho các mục tiêu này.
    Tại Úc, chính phủ và các cơ quan quản lý môi trường sinh thái đang sử dụng " Quản lý môi trường tổng hợp" (ICM) như là khuôn khổ để cố gắng đạt được các mục tiêu về môi trường đặt ra trong kế hoạch . Trong bài này, chúng tôi so sánh các khía cạnh của EMS và ICM khuôn khổ và nhận xét về tiềm năng của việc sử dụng EMS để đạt được kết quả môi trường sinh thái. Chúng tôi kết luận rằng EMS có thể là một công cụ hữu ích để cải thiện chính sách quản lý nông trại và để đóng góp, một phần, cho kết quả tốt hơn các vùng sinh thái / cảnh quan quy mô. Đề nghị về việc sử dụng EMS trong vùng sinh thái được thảo luận. Chúng bao gồm sử dụng một phương pháp tiếp cận cho EMS chia sẻ, liên kết hệ thống quản lý môi trường với những mục tiêu sinh thái, và đảm bảo thực hiện mục tiêu sinh thái và thành công. Cộng đồng nhiều nơi trên thế giới phát triển đang trở nên ngày càng lo ngại về hiệu quả hoạt động môi trường của ngành nông nghiệp (Bellamy và Johnson 2000; Taylor 2001; Gunningham và Sinclair 2002; Ridley 2001). Tại Úc, nông dân và chính phủ sử dụng thuật ngữ''sạch và xanh''để mô tả sản phẩm nông nghiệp (Yencken và Wilkinson 2000). Mặc dù việc sử dụng các thuật ngữ''sạch''thường có thể biện minh (đề cập đến các vấn đề an toàn thực phẩm như dư lượng thuốc trừ sâu), người nông dân đang ở vị trí kém thuận lợi để biện minh cho sự''xanh''một phần (thực phẩm sản xuất trong một môi trường theo cách thức chấp nhận được). Nông nghiệp đã đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế của Úc, nhưng các chi phí cho môi trường đã được quan trọng.
    Trong 200 năm kể từ khi định cư châu Âu, thay thế các hệ sinh thái bản địa, giới thiệu với thực vật và động vật nguồn gốc của phần lớn châu Âu đã có tác động lớn hợp lý (Cocks 1994; trắng 1997). Williams và Gascoigne (2003), trong số những người khác, nhà nước mà hiện nay hệ thống canh tác của chúng tôi (dựa trên các loại cây trồng hàng năm và đồng cỏ)không phù hợp với cảnh quan và gây suy thoái môi trường thông qua việc sử dụng không cân bằng nước, carbon, và chất dinh dưỡng. Chính quyền các cấp ở Úc được ploring cách để mang về một gia tăng trong nông nghiệp với môi trường chấp nhận được và các bstantiate''xanh''trọng của nông nghiệp Úc. Hệ thống quản lý môi trường (EMS) hiện lời hứa như một công cụ để đạt được điều này. EMS là một hệ thống quản lý cho một doanh nghiệp (trong trường hợp này, một trang trại) để đánh giá và cải thiện quản lý môi trường (Carruthers và Murray 1999). Tiêu chuẩn ISO 14000 đã được phát triển vào năm 1996 như là hệ thống chứng nhận quốc tế công nhận áp dụng cho EMS (Morelli 1999). . Một số định huớng trong Nông nghiệp úc được coi là phù hợp với tiêu chuẩn này(chuẩn, uthers và Tinning 2003; Taylor 2001).
    Với hơn 80% đất nông nghiệp của Úc được tư nhân quản lý (âñåõ 1997), hệ thống quản lý môi trường trang trại có thể được lợi đáng kể từ tài nguyên thiên nhiên nếu được ửư dụng tùy ý . Tuy nhiên, một thách thức lớn của trang tại là vấn đề môi trưòng sinh thái, vấn đề sinh thái như độ mặn và đa dạng sinh học.
    Những vấn đề thường có những tác động đó là nhận thức cảm nhận của những người điều hành các trang trại và nông trại hạn chế về năng lực tài chính (Vanclay và Lawrence 1994). Một trách nhiệm chính của chính phủ, do đó, là vấn đề môi trường, chẳng hạn như một phần của cam kết của mình để phát triển bền vững và an sinh của tất cả các công dân. EMS, trong số những phương pháp tiếp cận khác tự nguyện, cho thấy lời hứa cho địa chỉ như các vấn đề công cộng tốt (Mech 2002) và có thể là một phương pháp lý tưởng cho rằng chính phủ muốn di chuyển ra khỏi quy định để tạo thuận lợi trong quản lý tài nguyên thiên nhiên (NRM) kết quả (VCMC / DSE 2003) . Mức độ khác nhau của chính phủ Úc đang cộng tác để khám phá vai trò tiềm năng của EMS tại vùng sinh thái , (SCNRMMC2002). Đến nay, Quản lý tài nguồn tài nguyên thiên nhiên băng việc áp dụng ICM. Phương pháp này được dựa trên vùng sinh thái , như một số vấn đề môi trường, chẳng hạn như độ mặn và các vấn đề chất lượng nước, ICM tạo điều kiện quản lý đất đai và tài nguyên nước . Nó liên quan đến việc hợp tác giữa các chủ đất , các nhóm cộng đồng khác, và các cơ quan chính phủ (Mitchell và Hollick 1993; Johnson và những người khác 1996; Bellamy và Johnson 2000; Ewing 2003).
    Trọng tâm của bài này là tìm hiểu vai trò tiềm năng của EMS tại cuộc họp về mục tiêu về môi trường trong trang trại và cũng như quan tâm của Cồng đồng ÚC. Chúng tôi so sánh EMS và ICM và tìm hiểu những khả năng liên kết ICM và EMS về cải thiện môi trường ở vùng sinh thái. Để chứng minh việc áp dụng thực tế này, chúng tôi tập trung vào thử nghiệm EMS với nông dân trong vùng Riverina của New South Wales, và thực tế áp dụng tai các địa điểm này (Ridley và những người khác 2003b). Chúng tôi cũng thảo luận về những lợi ích và hạn chế của liên kết EMS và ICM và ý nghĩa đối với chính sách về môi trường tại Úc.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...