Luận Văn Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam

Thảo luận trong 'Thương Mại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề Tài : Đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa Việt Nam


    CHƯƠNG I

    LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA NGÀNH SẢN PHẨM SỮA VIỆT NAM



    I/ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA MỘT NGÀNH SẢN PHẨM:

    Nếu sét về năng lực cạnh tranh, chúng ta phải dặt ngành sản phẩm trong hai môi trường cạnh tranh cụ thể để phân tích: đó là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước và cạnh tranh giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Trong bài này, chỉ lựa chọn đánh giá khả năng cạnh tranh ở tầm vĩ mô, tức là khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm giữa các đối thủ quốc tế trên cùng một thị trường, không đi vào phân tích năng lực cạnh tranh giữa các sản phẩm trong cùng một nước.

    1.Khái niệm về năng lực cạnh tranh và cách tiếp cận vấn đề :

    Vấn đề cạnh tranh, về mặt lý luận, từ lâu đã được các nhà kinh tế học trước C.Mác và chính các nhà kinh tế của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng đã đề cập đến. Thuật ngữ cạnh tranh được dùng ở đây là cách gọi tắt của cụm từ cạnh tranh kinh tế (Economic Competition ) bằng một dạng cụ thể của cạnh tranh.

    Cạnh tranh xuất hiện trong quy trình hình thành và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Do đó, hoạt động cạnh tranh gắn liền với sự tác động của các quy luật thị trường, như quy luật giá trị, quy luật cung cầu do các cách tiếp cận khác nhau, nên trong thực tế có nhiều quan niệm khác nhau về cạnh tranh. Kế thừa các quan điểm của các nhà nghiên cứu, chúng ta có thể thấy rằng: cạnh tranh là quan hệ kinh tế phản ánh mối quan hệ giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường cùng theo đuổi mục đích, đó là lợi ích (trong đó bao gồm cả vấn đề lợi nhuận tối đa). Cạnh tranh chính là phương thức giải quyết mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa các chủ thể.

    Cạnh tranh có thể được phân chia thành nhiều loại dựa trên các tiêu thức khác nhau, nếu xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể kinh tế trong cạnh tranh, có cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành. C.Mác đã dùng cách phân loại trên đây nghiên cứu cơ sở khoa học của các phạm trù giá trị thị trường, giá cả sản xuất và lợi nhuận bình quân. ở đó, C.Mác chỉ rõ trước hết để đạt mục tiêu bán cùng một loại hàng hoá đã xuất hiện sự cạnh tranh trong nội bộ ngành, kết quả là hình thành giá trị thị trường. Và sau nữa, để đạt mục tiêu giành nơi đầu tư có lợi, giữa các chủ thể kinh tế đã xuất hiện cạnh tranh giữa các ngành, kết quả là hình thành lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất. Cuối cùng xét theo phạm vi lãnh thổ người ta nói tới cạnh tranh trong nước và cạnh tranh quốc tế. Trong trường hợp này năng lực cạnh tranh của sản phẩm sữa được đánh giá trên góc độ là cạnh tranh trong nội bộ ngành sản phẩm đồng thời xét theo phạm vi lãnh thổ chúng ta đánh giá và so sánh khả năng cạnh tranh như là cuộc cạnh tranh quốc tế, mặc dù vấn đề chúng ta nghiên cứu chủ yếu là cạnh trên thị trường trong nước là chính.

    Khi nghiên cứu về cạnh tranh, các nhà nghiên cứu còn sử dụng các khái niệm như sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và năng lực cạnh tranh. Rõ ràng các khái niệm trên đều có quan hệ với cạnh tranh nhưng không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Trong thực tế, thì sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh và năng lực cạnh trang được sử dụng như những khái niệm đồng nghĩa. Thuật ngữ năng lực cạnh tranh được sử dụng rộng rãi trong các phương tiện thông tin đại chúng, trong các sách báo chuyên môn, trong giao tiếp hàng ngày của các chuyên gia kinh tế, các chính khách, nhà kinh doanh Cho đến nay vẫn chưa có một sự nhất trí cao trong các học giả và giới chuyên môn về khái niệm và cách thức đo lường phân tích năng lực cạnh tranh của cấp quốc gia, ngành, công ty Lý do là ở chỗ có nhiều cách hiểu khác nhau về năng lực cạnh tranh.

    Trong bài này, trên quan điểm xuất phát của cạnh tranh là bắt đầu từ khi các doanhh nghiệp phải đương đầu với những khó khăn trong việc chiếm lĩnh thị trường khi cung lớn hơn cầu. Nên chúng ta có thể hiểu khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm của một nước chính là điểm mạnh mà đối thủ cạnh tranh không dễ dàng có được (đối thủ cạnh tranh ở đây có thể là các cùng đối thủ cạnh tranh cùng ngành của một nước khác hoặc các đối thủ cạnh tranh từ các sản phẩm thay thế ). Điểm mạnh ở đây, theo M.Porter đó là khả năng doanh nghiệp đáp ứng yêu cầu của khách hàng với chi phí sản xuất thấp nhất. Tức là, khả năng cạnh tranh của sản phẩm ở đây có được thể hiện qua giá, có thể là chất lượng hay là sự kết hợp của cả hai mà doanh nghiệp hay ngành sản phẩm của một nước có thể cung cấp cho khách hàng của mình mà vẫn đảm bảo được mức lãi xuất cho doanh nghiệp hay cho ngành.


    2.Phương pháp phân tích khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm sữa:

    Phương pháp phân tích này dựa trên cơ sở lý luận về năng lực cạnh tranh của M.Porter về ngành sản phẩm. Theo M.Porter năng lực cạnh tranh của sản phẩm có thể dựa vào hai tiêu thức: sản phẩm có giá rẻ hơn so với đối thủ cạnh tranh hoặc là sản phẩm có giá cao hơn bằng cách tạo ra sự khách biệt. Nhưng xét đến sau cùng M.Porter vẫn cho rằng bản chất khả năng cạnh tranh của một ngành sản phẩm đối với một nước là khả năng giảm chi phí sản xuất loại sản phẩm ngành đó.

    Do vậy chúng ta có thể sử dụng hai chỉ tiêu sau để đánh giá khả năng cạnh tranh của ngành sản phẩm:

    2.1.Các tiêu chí đánh giá tính cạnh tranh của sản phẩm:

    2.1.1 Khả năng cạnh tranh của sản phẩm về giá:

    Chỉ tiêu này được sử dụng với vai trò là một sự so sánh về giá giữa các doanh nghiệp cạnh tranh. Đây là chỉ tiêu cơ bản quan trọng đầu tiên khi xem xét xem một sản phẩm nào đó có khả năng cạnh tranh hay không. Bởi thông qua giá, mà doanh nghiệp có khả năng thu hút ngày càng nhiều hơn khách hàng về phía mình, tất nhiên là trong mối tương quan với chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng. Chỉ tiêu này đặc biệt quan trọng nhất là đối với các doanh nghiệp hay với ngành sản xuất sản phẩm có ít hàm lượng khoa học kĩ thuật, như hàng tiêu dùng thông thường đặc biệt là hàng lương thực thực phẩm. Nhất là trong điều kiện về thu nhập của người tiêu dùng còn thấp.

    Vấn đề khả năng cạnh tranh về giá còn cho thấy chi phí sản xuất của doanh nghiệp thấp hơn các đối thủ của nó. Điều này thể hiện các hoạt động tạo ra giá trị của doanh nghiệp có tính ưu việt hơn các đối thủ cạnh tranh. Chi phí thấp cho phép doanh nghiệp có khả năng đương đầu với những diễn biến bất lợi của có tác động đến giá cân bằng thị trường.

    2.1.2 Khả năng cạnh tranh của sản phẩm về chất lượng:

    Trước tiên, chất lượng sản phẩm ít nhất phải được xác nhận về chất lượng và quy trình công nghệ của các cơ quan chuyên trách. Đây là nhân tố đầu tiên đảm bảo doanh nghiệp thực hiện các tiêu chuẩn cơ bản, đủ tư cách sản xuất ra loại hàng hoá nào đó theo quy định của pháp luật (đối với từng sản phẩm đặc thù đều có những tiêu chuẩn kiểm định riêng về chất lượng do cơ quan có thẩm quyền đưa ra).

    Thứ hai đó là chất lượng được khẳng định trong tâm trí người mua hàng, đó là một thứ tài sản vô hình vô cùng quý báu của doanh nghiệp như uy tín, tên tuổi sản phẩm. Nó thể hiện sự tin tưởng vào sản phẩm của khách hàng, tức là khi lựa chọn để sử dụng loại sản phẩm đó người mua nghĩ ngay đến sản phẩm của doanh nghiệp , ngay cả khi giá sản phẩm có cao hơn thị trường. Đó là khi, nếu cùng một chủng loại sản phẩm giá như nhau, chất lượng sản phẩm sẽ được đo bằng số lượng người mua lựa chọn loại sản phẩm của doanh nghiệp , tức là thị phần của doanh nghiệp có được trên cùng một loại sản phẩm. Chất lượng tạo sự tin cậy lâu dài của khách hàng vào sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp doanh nghiệp nào có uy tín hơn về chất lượng sẽ thắng thế trong cạnh tranh.
     
Đang tải...