Luận Văn Đánh giá kết quả điều trị ung thư đại trực tràng di căn gan bằng đốt nhiệt sóng cao tần kết hợp với

Thảo luận trong 'Y Khoa - Y Dược' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 9/9/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐẶT VẤN ĐỀ

    Theo tổ chức ghi nhận ung thư thế giới (GLOBOCAN 2008), ung thư đại trực tràng (UTĐTT) có tỉ lệ mắc cao thứ 3 và đứng thứ 6 về tỉ lệ tử vong ở cả hai giới [35]. Ước tính năm 2010 tại Mỹ, có khoảng 142.570 trường hợp UTĐTT mới mắc trong đó 51.370 trường hợp tử vong [66]. Tại Việt Nam, năm 2010 trên cả nước có khoảng 5434 người mới mắc đứng hàng thứ 4 ở cả hai giới, trong đó tỷ lệ mắc của nam và nữ tương ứng là 19,0 và 14,7 trên 100.000 dân [6].
    Khoảng 70% bệnh nhân UTĐTT sẽ phát triển di căn gan trong suốt quá trình bệnh và được coi là nguyên nhân gây tử vong chính trong bệnh này. Trong số đó, có khoảng 1/3 số bệnh nhân chưa có di căn lan tràn ngoài gan. Mặc dù phẫu thuật cắt bỏ tổn thương di căn gan được coi là phương pháp điều trị triệt căn và mang lại hiệu quả điều trị cao nhất nhưng chỉ 20-25% bệnh nhân di căn gan có chỉ định phẫu thuật [54] [57] [58][59] [67]. Các bệnh nhân không phẫu thuật được có thể lựa chọn hóa chất toàn thân và các phương pháp điều trị tại chỗ như: hóa chất động mạch gan, tia xạ, đốt nhiệt sóng cao tần (ĐNSCT), tiêm ethanol, laser, tắc mạch .
    Trong các kỹ thuật điều trị tại chỗ UTĐTT di căn gan thì ĐNSCT là phổ biến nhất. Đã có nhiều nghiên cứu chứng minh tính an toàn và vai trò của ĐNSCT trong kéo dài thời gian sống thêm ở bệnh nhân UTĐTT di căn gan không phẫu thuật được. Cho đến nay ĐNSCT được đề xuất như một phương pháp điều trị chuẩn cho bệnh nhân UTĐTT di căn gan không có chỉ định phẫu thuật mà không có di căn ngoài gan. Mặt hạn chế của ĐNSCT là vẫn còn một tỉ lệ khá cao bệnh nhân tái phát tại gan và ngoài gan sau điều trị mà nguyên nhân là do các vi di căn và do sự phá hủy khối u chưa triệt để [51] [67]. Vai trò của điều trị hóa chất toàn thân cũng đã được chứng minh ở nhóm bệnh nhân này. Đặc biệt, FOLFIRI đã được coi là phác đồ điều trị chuẩn cho bệnh nhân UTĐTT di căn với mục đích: kiểm soát khối u, giảm nhẹ triệu chứng, nâng cao chất lượng và kéo dài thời gian sống. Việc kết hợp ĐNSCT với hóa chất toàn thân nhằm bổ xung mặt còn hạn chế, phát huy tác dụng tối đa của mỗi phương pháp để mang lại hiệu quả điều trị cao nhất [29] [34] [50] [59][63] [64]. Trên thế giới, những nghiên cứu trong thời gian gần đây về kết hơp ĐNSCT với hóa chất toàn thân đã mang lại những kết quả đáng khích lệ [51] [57] [62] . Ở nước ta, ĐNSCT mới được ứng dụng trong một số trung tâm y tế lớn nhưng chủ yếu là để điều trị ung thư gan nguyên phát. Cho đến thời điểm hiện tại, chưa có nghiên cứu nào về ứng dụng của ĐNSCT trong điều trị UTĐTT di căn gan. Đặc biệt là nghiên cứu về sự kết hợp giữa ĐNSCT với điều trị hóa chất toàn thân. Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu: “Đánh giá kết quả điều trị ung thư đại trực tràng di căn gan bằng đốt nhiệt sóng cao tần kết hợp với phác đồ hóa chất FOLFIRI” nhằm hai mục tiêu:

    1. Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng của bệnh nhân UTĐTT di căn gan.
    2. Đánh giá kết quả điều trị kết hợp đốt nhiệt sóng cao tần và phác đồ hóa chất FOLFIRI ở các bệnh nhân này.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...