Tài liệu Đánh giá kết quả của phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội từ thá

Thảo luận trong 'Y Khoa - Y Dược' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ TÀI: Đánh giá kết quả của phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội từ tháng 6/2006 đến tháng 6/2008

    ặt vấn đề

    Vô sinh là một vấn đề của toàn xă hội. Theo tổ chức y tế thế giới, vô sinh là t́nh trạng cặp vợ chồng không có thai sau 12 tháng chung sống mà không sử dụng một biện pháp tránh thai nào.
    Vô sinh hiện nay có chiều hướng ngày càng gia tăng, một phần do liên quan mật thiết với bệnh lây truyền qua đường t́nh dục, một phần v́ độ tuổi lập gia đ́nh của người phụ nữ ngày càng muộn hơn, trong khi đó quá tuổi 35 người phụ nữ khó có thai hơn.
    Tỷ lệ vô sinh thay đổi tuỳ theo từng quốc gia và dao động từ 10-18%. Theo thống kê ở Mỹ, năm 1988 tỷ lệ vô sinh là 13,7% [49], tại Pháp vô sinh chiếm 1/6 số cặp vợ chồng, cá biệt có nơi tỷ lệ vô sinh lên tới 40% [11], [25]. ở Việt Nam theo kết quả điều tra dân số năm 1982, tỷ lệ vô sinh chiếm 13% [12].
    Điều trị vô sinh là nhu cầu cấp thiết cho những cặp vợ chồng hiếm con nhằm đảm bảo hạnh phúc gia đ́nh và sự phát triển hài hoà của toàn xă hội. Chính v́ vậy nghiên cứu và điều trị vô sinh là một việc làm mang tính nhân văn và nhân đạo cao cả của con người.
    Hiện nay, sinh học phân tử có những tiến bộ vượt bậc trong việc áp dụng kỹ thuật công nghệ cao vào hỗ trợ sinh sản đă mang lại nhiều hy vọng cho các cặp vợ chồng không may mắn bị hiếm muộn, vô sinh trên thế giới.
    Hỗ trợ sinh sản (HTSS) là một thuật ngữ nói chung bao gồm những kỹ thuật y học khác nhau được sử dụng trong điều trị vô sinh. Mét trong những phương pháp HTSS được sử dụng trong điều trị vô sinh là phương pháp Thụ tinh trong ống nghiệm (In Vitro Fertilization - IVF ).
    Việc thô tinh giữa trứng và tinh trùng người bên ngoài cơ thể thành công được R.G.Edwards báo cáo lần đầu tiên vào năm 1969 [16].
    Năm 1978, ở Anh - bé gái IVF (Louise Brown) là người đầu tiên trên thế giới đă ra đời bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm.[12] Đầu năm 1980, Alain Tronson sử dụng kích thích buồng trứng để tăng số lượng nang noăn và có nhiều nang noăn chín hơn trong TTTON đă làm tăng tỷ lệ thành công của phương pháp này
    Ở Việt Nam đơn vị đầu tiên áp dụng thành công kỹ thuật Thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON) là bệnh viện Phụ sản Từ Dũ (Thành phố Hồ Chí Minh) năm 1998.
    Tháng 8 năm 2000 Viện BVBMTSS đă thực hiện những ca IVF đầu tiên,và em bé đầu tiên sinh ra nhờ kỹ thuật này vào ngày 26/6/2001.
    Bệnh viện Phụ sản Hà Nội kết hợp với Bộ môn Mô - Phôi chính thức áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm từ tháng 6 năm 2006.
    Để góp phần đánh giá kết quả của phương pháp mới này tại khoa HTSS – Bửnh viện Phụ sản Hà Nội, chúng tôi tiến hành đề tài: Đánh giá kết quả của phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội từ tháng 6/2006 đến tháng 6/2008 với mục tiêu sau:
    1- Xác định tỷ lệ có thai lâm sàng của phương pháp TTTON tại Bệnh viện Phụ sản Hà Nội từ tháng 6/2006 - 6/2008.
    2- T́m hiểu mối liên quan của: tuổi mẹ, độ dày nội mạc tử cung, chất lượng noăn, chất lượng và số lượng phôi chuyển, kỹ thuật chuyển phôi đến kết quả TTTON.






    Chương 1

    Tổng quan

    1.1. T́nh h́nh vô sinh

    1.1.1. Khái niệm vô sinh

    Theo tổ chức y tế thế giới, vô sinh là t́nh trạng không có thai sau một năm chung sống vợ chồng mà không dùng một biện pháp tránh thai nào, đồng thời tần suất giao hợp đạt 2 - 3 lần mỗi tuần. Với những trường hợp nguyên nhân vô sinh đă tương đối rơ ràng th́ việc tính thời gian không c̣n được đặt ra [11, 25]. Ví dụ: Người phụ nữ bị vô kinh, người đàn ông bị liệt dương . th́ coi là vô sinh ngay, cần khám và điều trị sớm.
    Các nhà sản khoa chia vô sinh làm 2 loại: Vô sinh nguyên phát (hay c̣n gọi là vô sinh I) là người phụ nữ chưa hề có thai lần nào, vô sinh thứ phát (hay c̣n gọi là vô sinh II) là người phụ nữ đă từng có thai Ưt nhất một lần.
    Vô sinh nam là VS có nguyên nhân hoàn toàn do người chồng, người vợ hoàn toàn b́nh thường. C̣n VS nữ là có nguyên nhân hoàn toàn do người vợ và người chồng b́nh thường.
    Thiểu sinh (c̣n gọi là hiếm muộn) là t́nh trạng khó có thai của một cặp vợ chồng mà cả hai đều giảm khả năng sinh sản. Không có khả năng sinh sản là một người có một yếu tố tuyệt đối nào đó, mà yƠu tố này ngăn cản việc có thai [5].
    Vô sinh không rơ nguyên nhân là trường hợp làm các xét nghiệm thăm ḍ hiện có, không phát hiện được nguyên nhân nào.
    Với phụ nữ trên 35 tuổi khái niệm vô sinh chỉ tính thời gian là sáu tháng [11].
    1.1.2. Tỷ lệ và nguyên nhân vô sinh

    Trên thế giới, tuỳ từng nước, tỷ lệ vô sinh thay đổi từ 10 – 18 %, đặc biệt có nơi lên tới 40% [25].
    Về nguyên nhân vô sinh, theo WHO (1985), khoảng 20% là không rơ nguyên nhân, 80% có nguyên nhân trong đó vô sinh nữ chiếm 40%, vô sinh nam chiếm 40% và do cả hai là 20%.
    Tại nước ta, theo điều tra dân số năm 1982, tỷ lệ vô sinh chiếm 13%, trong đó vô sinh nữ chiếm 54%, vô sinh nam chiếm 36%, vô sinh không rơ nguyên nhân chiếm 10% [12].
    Nghiên cứu những cặp vợ chồng đến điều trị vô sinh có đầy đủ các xét nghiệm thăm ḍ tại Viện Bảo vệ Bà Mẹ và Trẻ Sơ Sinh (nay là Bệnh Viện Phụ sản Trung Ương) từ năm 1993 – 1997, Nguyễn Khắc Liêu và cộng sự thấy: vô sinh nữ chiếm 54,5%, vô sinh nam chiếm 35,6%, vô sinh không rơ nguyên nhân chiếm 10% [8]. Như vậy tỷ lệ vô sinh không rơ nguyên nhân của nước ta thấp, chỉ bằng một nửa so với nhiều nơi trên thế giới.
    1.2. các phương pháp hỗ trợ sinh sản

    1.2.1. Lịch sử

    * Trên thế giới
    Năm 1959, Chang lần đầu tiên thành công trong việc cho tinh trùng thụ tinh với trứng động vật có vú (thỏ) trong điều kiện pḥng thí nghiệm. Đây được xem là thành tựu quan trọng nhất trong lịch sử phát triển của thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON). Nó chứng tỏ trứng và tinh trùng của động vật có thể thụ tinh được bên ngoài cơ thể. Từ sau thí nghiệm này, TTTON đă được nghiên cứu trên nhiều loại động vật khác nhau, kể cả trên người [24].
    Năm 1978, Louis Brown, em bĐ đầu tiên từ IVF ra đời đă đánh dấu bước đầu cho sự phát triển của IVF trên người. Đăay là thành công của Steptoe và Edwards thực hiện tại bệnh viện Bourn Hall (Anh) [Trích dẫn qua 24].
    Năm 1983, siêu âm đầu ḍ âm đạo được giới thiệu và kỹ thuật chọc hút trứng qua ngả âm đạo với hướng dẫn của siêu âm đầu ḍ âm đạo đă thay thế hoàn toàn việc chọc hút trứng qua nội soi tốn kém, nguy hiểm và kém hiệu quả.
    Tới năm 1984, Mỹ báo cáo thành công kỹ thuật chuyển giao tử vào ṿi trứng.
    Tại Singapore, năm 1988 SC Ng và cộng sự báo cáo lần đầu tiên thành công kỹ thuật tiêm tinh trùng vào dưới màng trong suốt (SUZI). 1989, kỹ thuật đục thủng màng trong suốt (PZD) để hỗ trợ thụ tinh được Cohen báo cáo tại Mỹ.
    Cho đến năm 1992,với sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật vi thao tác, kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương trứng (ICSI) được báo cáo thành công lần đầu tiên tại Bỉ bởi Palermo và cộng sự [Trích dẫn qua 24]. Trong kỹ thuật này, chỉ tiêm trực tiếp một tinh trùng vào trứng để hỗ trợ sự thụ tinh. Sau khi tiêm vào trứng, tế bào trứng vẫn có thể hồi phục, sự thụ tinh diễn ra và sau đó phôi phát triển khá tốt. Tỷ lệ có thai lâm sàng của kỹ thuật này luôn nhỉnh hơn so với kỹ thuật IVF cổ điển (tỷ lệ thụ tinh khoảng 70 - 80%, tỷ lệ có thai 35 - 40%) [10]. Đây là bước ngoặt lớn trong điều trị vô sinh do không có tinh trùng nguyên nhân do tắc đường dẫn tinh và các trường hợp tinh trùng Ưt hoặc yếu.
    Năm 1994, trường hợp có thai đầu tiên từ trứng non trưởng thành trong ống nghiệm (IVM) và trường hợp hút tinh trùng từ mào tinh qua vi phẫu và tiêm tinh trùng vào bào tương trứng (MESA - ICSI) lần đầu tiên được thông báo.
    Năm 1995, kỹ thuật chọc hút tinh trùng từ mào tinh xuyên qua da và tiêm tinh trùng vào bào tương trứng (PESA - ICSI), kỹ thuật phân lập tinh trùng từ tinh hoàn những trường hợp giảm sinh tinh tại tinh hoàn và tiêm tinh trùng vào bào tương noăn (TESE – ICSI) được báo cáo thành công. Tỷ lệ thành công của phương pháp này tương đương với tỷ lệ thành công chung của IVF. Với sự thành công của kỹ thuật này, vấn đề vô sinh nam hầu như đă được giải quyết triệt để [Trích dẫn qua 24].
    Đến năm 1997 đă có 492 trung tâm ở 43 nước trên thế giới đăng kư thực hiện kỹ thuật TTTON [22].
    Tháng 5 năm 1999 Natalie Brown - phụ nữ đầu tiên ra đời nhờ TTTON (em ruột của Loise Brown) đă sinh con; Sự kiện này được đánh giá là: “chúng ta đang chứng kiến thế hệ thứ hai của TTTON - khi mà những đứa trẻ TTTON ngày nào đang trở thành những ông bố bà mẹ” [61].
    Năm 2001, phác đồ mới trong kỹ thuật trữ trứng ra đời, cải thiện đáng kể tỷ lệ thành công; cũng trong năm này, tại Ư những em bé đầu tiên được sinh ra từ cả trứng và tinh trùng đông lạnh ra đời.
    Tính đến cuối năm 2003 toàn thế giới có tổng cộng khoảng 1,1 triệu trẻ TTTON.
    * Tại Việt Nam
    TTTON tại Việt Nam thực hiện khá muộn so với các nước trên thế giới và trong khu vực. Tuy nhiên, việc đưa các tiến bộ của y học thế giới vào điều trị vô sinh của chúng ta hiện nay đă đạt được những tiến bộ đáng kể. Hiện nay, Bệnh viện PS Từ Dũ là một trong những trung tâm TTTON lớn nhất Châu Á về sè chu kỳ điều trị cũng như sự đa dạng của các kỹ thuật điều trị. Tiếp theo là BVPS Trung Ương. Sau các thành công ban đầu, và xây dựng được quy tŕnh kỹ thuật hoàn chỉnh, BVPS Từ Dũ cùng với BVPSTƯ đă sớm triển khai các chương tŕnh chuyển giao kỹ thuật đến các trung tâmTTTON khác ở Việt Nam. Cho đến nay, Việt Nam đă có 13 trung tâm TTTON. Em bé đầu tiên của Việt Nam ra đời nhờ kỹ thuật IVF tại Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ đến nay đă tṛn 10 tuổi. Muộn hơn 3 năm, nhưng những em bé đầu tiên ra đời từ kỹ thuật này của BVPSTƯ cũng vừa đón chào sinh nhật lần thứ 7 của ḿnh.
     
Đang tải...