Thạc Sĩ Đánh giá hiệu quả và đề xuất giải pháp phát triển mô hình trồng Điềm Trúc (Dendrocalamus Latiflorus

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 6/12/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐẶT VẤN ĐỀ

    Từ xa xưa con người đã biết sử dụng tre nứa để phục vụ nhu cầu đa dạng của mình trong cuộc sống hàng ngày. Tre nứa đã đi vào cuộc sống con người như một bộ phận không thể thiếu được. Trên thế giới có tới 1250 loài, 47 chi phân bố 1700 triệu ha, phân bố chủ yếu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, chỉ có một số ít phân bố ở vùng hàn đới.
    Nước ta là một trong những trung tâm phân bố nhiều loài thuộc phân họ này, tre nứa không chỉ phong phú về thành phần loài, có trữ lượng lớn mà còn phân bố rộng khắp từ Bắc vào Nam trên nhiều đai khí hậu khác nhau.
    Theo thống kê năm 2000 thì rừng tre nứa tự nhiên có 7.89.221 ha, rừng tre nứa hỗn loài với cây gỗ là 702, 871 ha, rừng trồng tre nứa là 73, 852 ha.
    Diện tích tre nứa chiếm 14, 35% trên tổng diện tích rừng, đây là chưa kể tre nứa được trồng phân tán ở ven nhà, quanh làng bản. Từ đó cho thấy tài nguyên tre nứa nước ta vô cùng phong phú và đa dạng.
    Do đó có những đặc điểm như mọc nhanh, sớm cho sản phẩm, sẵn có trong tự nhiên, kỹ thuật gây trồng tương đối đơn giản, có khả năng sinh trưởng trên đất khó canh tác, đất bạc màu và là cây đa tác dụng Nên tre nứa là nguồn tài nguyên phong phú đã và đang được con người sử dụng rộng rãi.
    Hiện nay cùng với sự phát triển của khoa học - kỹ thuật bằng những công nghệ tiên tiến con người đã tìm ra những hướng mới trong chế biến, sử dụng tre nứa như tạo ra các sản phẩm chất lượng cao, phẩm chất tốt đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng hay phát hiện ra các ứng dụng mới của tre nứa như chiết suất ra các loại dược liệu, hóa mỹ phẩm
    Ở nước ta các loài tre nứa thường được trồng tại những nơi đồi núi, ven sông suối. Việc nghiên cứu loài cây này trên vùng ngập còn rất nhiều hạn chế, những đề tài nghiên cứu về đặc tính sinh vật học của loài cây này là rất ít.
    Hiện nay với việc đã nghiên cứu trồng thành công tre Điềm Trúc tại vùng Ngập lũ ngoài bãi Thanh Trì – Hà Nội đã và đang mang lại nhiều sản phẩm quan trọng và có giá trị như măng, thân cây, cây giống
    Bên cạnh đó cây điềm trúc chịu hạn, lụt, rét đều rất tốt, đầu ra, đầu vào đều dễ thực hiện trọng phạm vi từng hộ gia đình hoặc tiến tới làm các dự án lớn để xuất khẩu. Trong tình hình thiên tai biến đổi phức tạp như những năm gần đây thì việc đưa cây điềm trúc phát triển rộng cho các vùng ngập lũ có tính khả thi cao. Để nông dân chung sống bền vững, chủ động tích cực với lũ mà không sợ bị mất mùa tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Đánh giá hiệu quả và đề xuất giải pháp phát triển mô hình trồng Điềm Trúc (Dendrocalamus Latiflorus Munro) tại vùng ngập lũ ngoài bãi Thanh Trì – Hà Nội”.



    Phần 1
    TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

    1. 1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
    1. 1. 1. Tình hình nghiên cứu về hiệu quả kinh tế - môi trường và xã hội trên thế giới
    Ở các nước Phương Tây trong những thập kỷ 60, các chính phủ đã bắt đầu quan tâm đến chất lượng môi trường sống, công chúng đòi hỏi, yêu cầu
    nhà nước phải có đường lối để giải quyết những vấn đề về môi trường. Trong những năm 70 và đầu những năm 80 đồng loạt các nước Phương Tây đã có những giải pháp tích cực, đi đầu trong lĩnh vực này là các nước: Mỹ, Đức, Nhật, Thụy Điển, Úc
    Ở Mỹ đầu năm 70, quốc hội ban hành luật bảo vệ tài nguyên môi trường và đã lập ra cơ quan bảo vệ môi trường quốc gia gọi tắt là NEPA (national Enviroment Protection Ageney) thống nhất quản lý các vấn đề về môi trường toàn cầu.
    Từ đó về sau xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về môi trường đặc biệt nghiên cứu về ảnh hưởng của hoạt động sản xuất đến môi trường đất, nước, không khí. Cùng thời điểm đó nhiều tổ chức môi trường trên thế giới cũng đã ra đời và hoạt động tích cực nhằm tìm ra các giải pháp ngăn chặn và khắc phục hiện tượng suy thoái môi trường.
    Năm 1992 tại hội nghị quốc tế về môi trường tại Rio Dejan Neiro – Braxin thế giới đã lên tiếng nói chung là phải kết hợp hài hòa bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế, xã hội hướng tới một sự bền vững trên phạm vi từng nước và toàn cầu.
    Trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu đánh giá hiệu quả kinh tế, xã hội, sinh thái của nhiều mô hình sản xuất đặc biệt là công trình nghiên cứu đánh giá hiệu quả môi trường như:
    * Một số mô hình nghiên cứu đánh giá xói mòn của nhà bác học VOLNI năm 1870. Sau công trình của ông thì nhiều nghiên cứu về xói mòn khác được thực hiện ở các nước đang phát triển.
    * Gần đây với nhiều dự án hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ trên thế giới, những nghiên cứu về xói mòn cũng được thực hiện ở các nước: Mỹ, Liên Xô và một số nước đang phát triển. Quá trình nghiên cứu được chia làm 3 giai đoạn:
    1. Giai đoạn I: Trước năm 1994 có nhiều công trình nghiên cứu nổi bật
    ở Mỹ, Musgrave tập trung nghiên cứu hiệu quả của các công trình chống xói mòn ngoài thực địa được tiến hành theo những phương pháp đơn giản, mức đọ dịnh lượng thấp, chủ yếu dựa vào hiệu quả trước mắt mà chưa chú ý đến phát triển bền vững thiên nhiên đảm bảo được đời sống của người dân.
    2. Giai đoạn II: Từ năm 1994 – 1980: Tập trung nghiên cứu khả năng bảo vệ đất của các phương thức canh tác phải kể đến nghiên cứu của Ellsion về khả năng giảm xói mòn của thảm thực vật.
    3. Giai đoạn III: Từ năm 1980 trở lại đây: Được bắt đầu từ hội nghị quốc tế về : "chiến lược bảo vệ toàn cầu" cho sự phát triển bền vững công bố năm 1980 (IUCN)
    1. 1. 2. Tình hình nghiên cứu về tre nứa trên thế giới
    Các loài trong nhóm tre nứa là đối tượng được các nhà khoa học trên thế giới nghiên cứu từ lâu đời. Công trình nghiên cứu đầu tiên phải kể đến công trình: “Nghiên cứu về Bambusaceae” của Munro xuất bản năm 1808. Tiếp đến là công trình nghiên cứu “ các loài Bambusaceae ở Ấn Độ” Trong những tài liệu nghiên cứu sâu và cung cấp nhiều thông tin về tre nứa phải kể đến công trình rừng tre của Ij haig, M. A. Huberman, Uaung. Dis đã được FAO xuất bản năm 1959. Trong tài liệu này các tác giả đã tổng kết và đề cập đến nhu cầu sinh thái, đặc tính sinh vật học của tre nứa nói chung.
    Trong những năm gần đây tre nứa đã thu hút sự chú ý của nhiều nước và nhà khoa học. Trung tâm nghiên cứu phát triển quốc tế (IDRC) đã thành lập “mạng lưới quốc tế về tre mây” (INBAR) mà Việt Nam cũng là thành viên của mạng lưới này, Trung Quốc, Ấn Độ đã thành lập viện chuyên nghiên cứu về tre.
    Tại hội thảo quốc tế về tre nứa tháng 10/1995 ở Hàng Châu – Trung Quốc đã khẳng định rằng Trung Quốc là nước có nguồn tài nguyên tre nứa bậc nhất thế giới với khoảng 40 chi và 400 loài và diện tích tre nứa có hơn 7 triệu ha, trong đó 4 triệu ha rừng trồng và 3 triệu ha rừng tre nứa mọc phân bố tự nhiên (Theo luận văn thạc sĩ Trần Trung Hậu – 2001).
    Theo bản dịch tiếng Trung Quốc “Hỏi đáp về kỹ thuật gây trồng, chăm sóc, khai thác và chế biến tre” cho biết: Tre phân bố chủ yếu ở các nước nhiệt đới và Á nhiệt đới. Theo thống kê, trên thế giới diện tích tre hiện có là trên 14 triệu ha. Trong đó mọc cụm chiếm 3/5, tre nứa mọc tản chiếm 2/5. Chia ra 3 vùng phân bố tre trên thế giới: Vùng tre Châu Á – Thái Bình Dương, Vùng tre Châu Mỹ và Vùng tre Châu Phi. Vùng tre Châu Á – Thái Bình Dương trên giải gió mùa Đông Nam Á là trung tâm phân bố tre trên thế giới. (NXB Nông Nghiệp – năm 2006)
    Sau một thời gian dài nghên cứu G. S – T. S: Koichiro Ueda – Trường Đại Học Tokyo Nhật Bản đã chỉ ra rằng: Thế giới có 1250 loài (species) và 75 chi, 250 loài khác nhau phân bố trên thế giới thì riêng Ấn Độ có tới 136 loài với các chi chủ yếu là: Đendrocalamus và Trinostadyum.
    Ngoài giá trị làm thực phẩm Tre nứa còn là nguyên liệu để thay thế gỗ để sản xuất bột giấy. Theo tài liệu thống kê của Liên Hợp Quốc thì vào năm 1999 sản lượng bột giấy từ tre nứa của thế giới khoảng 1,69 triệu tấn khoảng 0, 92% tổng sản lượng bột giấy trên thế giới. Trong đó Ấn Độ được coi là nước đứng đầu trên thế giới về sử dụng tre nứa làm nguyên liệu bột giấy.
    Tóm lại Tre nứa được sử dụng phổ biến trên thế giới. Nó được dùng để trồng rừng sản xuất, rừng phòng hộ, dùng trong công nghiệp ván ép Ngoài ra nó còn là loài cây cho nguồn thực phẩm sạch, chất lượng cao cho con người. Vì thế có thể khẳng định rằng tre nứa là loài có giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Phát triển nguồn tre nứa trên thế giới nhằm phục vụ lợi ích của con người và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên này thông qua việc nghiên cứu các thuộc tính tự nhiên của tre nứa và cách gây trồng, giá trị sử dụng của chúng và quy mô nhân rộng trên thế giới.
    1. 2. Tình hình nghiên cứu trong nước:
    1. 2. 1. Những nghiên cứu về hiệu quả KT – XH – MT ở Việt Nam:
    Trong thập kỷ trước muôn vàn khó khăn như chiến tranh, nạn đói khủng hoảng kinh tế, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp nên nhà nước cũng chưa coi trọng giá trị của rừng tự nhiên (coi rừng chỉ có 2% tổng giá trị sản phẩm cả nước). Vì chưa có chủ trương, chính sách chỉ đạo về khai thác rừng hợp lý nên diện tích rừng của nước ta bị thu hẹp rất nhiều từ chỗ chiếm 43% diện tích lãnh thổ nay chỉ còn dưới 30%, Đất trống đồi trọc ngày càng tăng lên, gỗ và LSNG quý hiếm ngày càng bị khan hiếm.
    Sau hòa bình thống nhất đất nước, chính sách đổi mới của đảng và nhà nước được thực hiện. Kinh tế được phát triển rõ rệt, đồng thời với nó là vấn đề môi trường được quan tâm hơn. Ngành lâm nghiệp đã xác định nhiệm vụ trước mắt của mình là đưa ra giải pháp để điều chỉnh cường độ khai thác và sử dụng rừng một cách hợp lý, đảm bảo ảnh hưởng của nó không vượt qua ngưỡng nguy hiểm tức là sản xuất lâm nghiệp đồng thời sự bền vững về mặt môi trường và xã hội.
    Trong những năm gần đây được sự đầu tư của nhiều tổ chức nước ngoài. Ở nước ta cũng đã có nhiều hoạt động nghiên cứu hiệu quả KT- XH-MT của rừng như:
    + Đánh giá môi trường rừng ở Quảng Ninh do Nguyễn Quang Tuấn thực hiện năm 1996 đánh giá hiệu quả môi trường theo phương pháp hiện vật (hệ thống lý sinh). Công trình đã phân tích được những biến đổi của trữ lượng, tăng trưởng của rừng thuộc các đơn vị cá nhân quản lý lãnh thổ. Dự án thực hiện vẫn bị thiếu nhiều thông tin và khó khăn về phương pháp luận trong đánh giá hiệu quả các LSNG và giá trị môi trường của rừng.
    + Trần Thị Quế: Nghiên cứu hiệu quả kinh tế môi trường của mô hình canh tác nông nghiệp tại Tuyên Quang. Những yếu tố giá trị kinh tế môi trường còn chưa được tính đến những giá trị thu được tính đến những giá trị thu được từ thảm thực vật trung gian hình thành trong quá trình bỏ hóa nương rẫy
    + Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu của các tác giả khác như:
    1. Trần Việt Hà (1995): Đánh giá hiệu quả KT, XH của một số mô hình canh tác trên đất dốc thông qua thu thập từ sản xuất lâm nghiệp và khả năng chống xói mòn.
    2. Vương Văn Quỳnh (1997): Nghiên cứu hiệu quả KT- MT của một số mô hình canh tác của người Dao ở Tuyên Quang.
    3. Trần Thế Liêm (1995): Đánh giá hiệu quả KT – MT của các mô hình canh tác ở các xã cân đập Hòa Bình.
    1. 2. 2. Tình hình nghiên cứu tre nứa ở trong nước:
    Nước ta ở vùng nhiệt đới, hệ thực vật rất giàu có, đó là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các loài tre nứa, với 162 loài thuộc 19 chi. Nước ta thống kê được 789, 211 ha rừng tre nứa thuần loài, 702, 871 ha. Rừng tre nứa hỗn giao với hơn 2000 tỷ cây.
    Do tre nứa có giá trị về nhiều mặt như vậy nên nó đã được các nhà khoa học lâm nghiệp nước ta được quan tâm nghiên cứu. Ngay sau khi thành lập viện Lâm Nghiệp đã chú ý đến đối tượng này song song với các loài cây gỗ đặc sản khác. Trong những năm đầu của thập kỷ 60 đã có một số công trình nghiên cứu về các loài tre nứa, trong đó phải kể đến công trình của Phạm Văn Tích (1963): “Kinh nghiệm trồng Luồng”. Công trình này tác giả đã tổng kết được rất nhiều kinh nghiệm trồng luồng trong nhân dân là tài liệu quan trọng trong trồng rừng tre nứa sản xuất và trồng rừng phòng hộ đầu nguồn của nước ta.
    Năm 1971 Lê Nguyên và các cộng sự đưa ra công trình nghiên cứu “Nhận biết, gây trồng, bảo vệ và khai thác tre trúc” do NXB Nông thôn – Hà Nội phát hành. Trong công trình đó tác giả đưa ra các đặc điểm cơ bản của một số loài tre nứa, cách gây trồng và phương thức khai thác chúng.
    Năm 1977, Vũ Văn Dũng cho bài đăng “ Thành phần và phân bố các loài tre nứa ở Miền Bắc Việt Nam” trên tạp chí Lâm Nghiệp. Ông đã công bố 47 loài tre nứa khác nhau ở Miền Bắc và nêu công dụng, mùa ra măng, vùng phân bố các loài này.
    Ngoài những công trình nghiên cứu nói trên còn phải kể đến công trình nghiên cứu của Ngô Quang Đê – Trường ĐHLN. Năm 1994 cuốn “Gây trồng tre trúc” do NXB nông nghiệp Hà Nội ban hành. Trong cuốn này tác giả đã giới thiệu đặc điểm sinh thái và cách gây trồng tre trúc kết hợp giới thiệu chung về vai trò KT- XH- MT và văn hóa mà tre trúc đem lại
    Năm 2000, trong nghiên cứu của mình, tác giả Trần Ngọc Hải đã phân tích giá trị dinh dưỡng của măng Vầu Đắng và so sánh hàm lượng một số chất (protein, lipit, xenluloza) trong măng của một số loài như Bương, Luồng so với măng Vầu Đắng.
    Đến Năm 2001 trên tạp chí nông nghiệp và phát triển nông thôn số 6, tác giả Trần Ngọc Hải đã đưa ra: Quản lý LSNG dựa trên cơ sở cộng đồng tại Hòa Bình và Hà Tây.
    Năm 2003, Trần Ngọc Hải đã đưa ra một số nhóm giải pháp để phát triển bền vững LSNG tại một số thôn thuộc vùng đệm VQG Ba Vì- Hà Tây sau khi đã phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với phát triển tre Bương.
    Năm 2000 đến năm 2004 là đề tài “Trồng thực nghiệm thâm canh các loài tre nhập nội lấy măng” do Thạc sĩ Đỗ Văn Bản (VKHLNVN) thực hiện. Đã mở ra một tiềm năng mới về kinh doanh rừng tre trúc ở nước ta.
    Năm 2005, Nguyễn Hoàng Nghĩa và cộng sự đã công bố 7 loài nứa mới thuộc chi Nứa (Schizostachyum) như: Khốp Cà Ná (Cà Ná, Ninh Thuận), Nứa Núi Dinh (Bà Rịa - Vũng Tàu), Nứa đèo Lò Xo (Đắc Glei, Kon Tum), Nứa lá to Saloong (Ngọc Hồi, Kon Tum), Nứa không tai Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương), Nứa có tai Côn Sơn (Chí Linh, Hải Dương), Nứa Bảo Lộc (Bảo Lộc, Lâm Đồng – mô tả để so sánh).
    Nhìn chung tre nứa ở Việt Nam đã và đang được quan tâm nhưng vẫn chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu, đánh giá hiện trạng gây trồng, khai thác sử dụng các loài tre nứa. Cũng như hiệu quả KT-XH-MT mà tre nứa đem lại.
    Từ những phân tích trên ta thấy rằng hiệu quả KT-XH-MT của tài nguyên tre nứa là rất lớn và vai trò của chúng đang là một xu thế phát triển của các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nghiên cứu để thực hiện vấn đề này có hiệu quả là việc làm cần thiết để có thể bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên tre nứa phong phú đa dạng.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...