Thạc Sĩ Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất chè của hộ nông dân trên địa bàn huyện Văn Chấn - tỉnh Yên Bái

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    166
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
    Cây chè là cây trồng có nguồn gốc nhiệt đới và Á nhiệt đới, sinh trưởng,
    phát triển tốt trong điều kiện khí hậu nóng và ẩm. Tuy nhiên, nhờ sự phát
    triển của khoa học kĩ thuật, cây chè đã được trồng ở cả những nơi khá xa với
    nguyên sản của nó. Trên thế giới, cây chè phân bố từ 42 vĩ độ Bắc đến 27 vĩ
    độ Nam và tập trung chủ yếu ở khu vực từ 16 vĩ độ Bắc đến 20 vĩ độ Nam [5].
    Chè là cây công nghiệp dài ngày, được trồng khá phổ biến trên thế giới,
    tiêu biểu là một số quốc gia thuộc khu vực Châu á như: Trung Quốc, Nhật
    Bản, Việt Nam . Nước chè là thức uống tốt, rẻ tiền hơn cafê, ca cao, có tác
    dụng giải khát, chống lạnh, khắc phục sự mệt mỏi của cơ thể, kích thích hoạt
    động của hệ thần kinh, hệ tiêu hoá, chữa được một số bệnh đường ruột [4].
    Một giá trị đặc biệt của chè được phát hiện gần đây là tác dụng chống phóng
    xạ, điều này đã được các nhà khoa học Nhật bản thông báo qua việc chứng
    minh chè có tác dụng chống được chất Stronti (Sr) 90 là một đồng vị phóng
    xạ rất nguy hiểm, qua việc giám sát thống kê nhận thấy nhân dân ở một vùng
    ngoại thành Hirôsima có trồng nhiều chè, thường xuyên uống nước chè, vì
    vậy rất ít bị nhiễm phóng xạ hơn các vùng chung quanh không có chè [17].
    Chính vì các đặc tính ưu việt trên, chè đã trở thành một sản phẩm đồ uống
    phổ thông trên toàn thế giới. Hiện nay, trên thế giới có 58 nước trồng chè,
    trong đó có 30 nước trồng chè chủ yếu, 115 nước sử dụng chè làm đồ uống,
    nhu cầu tiêu thụ chè trên thế giới ngày càng tăng. Đây chính là lợi thế tạo điều
    kiện cho việc sản xuất chè ngày càng phát triển [5].
    Việt Nam là một trong những nước có điều kiện tự nhiên thích hợp cho
    cây chè phát triển. Lịch sử trồng chè của nước ta đã có từ lâu, cây chè cho
    năng suất sản lượng tương đối ổn định và có giá trị kinh tế, tạo việc làm cũng
    như thu nhập hàng năm cho người lao động, đặc biệt là các tỉnh trung du và
    miền núi. Với ưu thế là một cây công nghiệp dễ khai thác, nguồn sản phẩm
    đang có nhu cầu lớn về xuất khẩu và tiêu dùng trong nước, thì cây chè đang
    được coi là một cây trồng mũi nhọn, một thế mạnh của khu vực trung du
    miền núi.

    Yên Bái là một tỉnh miền núi sản xuất nông lâm nghiệp là chính. Trong
    sản xuất nông nghiệp thì cây chè là một cây trồng truyền thống và được xác
    định là một trong những cây trồng mũi nhọn của tỉnh Yên Bái. Cây chè đã
    giải quyết việc làm ổn định cho hàng vạn lao động, đã góp phần quan trọng
    trong việc xoá đói giảm nghèo, giải quyết nguyên liệu cho các cơ sở chế biến
    của tỉnh, đồng thời đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương.
    Hiện nay, Yên Bái có 12.516 ha chè, được trồng tập trung chủ yếu ở
    huyện Văn Chấn, Trấn Yên, Yên Bình, Mù Cang Chải . Trong đó, có 10.671
    ha chè kinh doanh với năng suất bình quân 65,6 tạ chè búp tươi/ha (tương
    đương với 14,6 tạ chè búp khô/ha) đã tạo ra giá trị sản xuất trên 1 ha khoảng
    30 triệu đồng/năm [3].
    Tuy nhiên, so với tiềm năng của địa phương, thì việc sản xuất, chế biến
    kinh doanh chè còn bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém. Nghị quyết Đại hội XVI
    tỉnh Đảng bộ Yên Bái tháng 12/2005 đã chỉ rõ những yếu kém là: "Chậm phát
    hiện, thiếu giải pháp kiên quyết, đồng thời để giải quyết những khó khăn,
    vướng mắc trong chương trình trồng, chăm sóc, chế biến, tiêu thụ chè. Lúng
    túng và chậm cải tạo, thay thế chè già cỗi ở vùng thấp, và khắc phục yếu kém
    trong trồng, chăm sóc chè vùng cao".
    Văn Chấn là một trong những huyện trọng điểm chè của tỉnh, có diện
    tích trồng chè lớn nhất trong tỉnh là 4.171 ha. Theo đánh giá sơ bộ về hiệu quả
    kinh tế của huyện thì cây chè là cây cho thu nhập tương đối cao và ổn định so
    với các cây trồng khác Vậy tại sao diện tích trồng chè chưa được mở rộng

    như tiềm năng đất đai vốn có, tại sao năng suất, chất lượng và giá cả chè của
    huyện còn thấp so với tiềm năng thế mạnh của vùng. Mặt khác phương thức
    sản xuất của người dân còn mang tính nhỏ lẻ thủ công, dựa vào kinh nghiệm
    là chính. Việc sử dụng phân bón chưa hiệu quả, cơ cấu giống còn nghèo nàn
    chủ yếu là giống chè trồng bằng hạt năng suất, chất lượng còn thấp, nhiều
    vùng trong huyện chè ngày một xuống cấp đang rất cần có sự quan tâm của
    các cấp chính quyền có liên quan.
    Trước những thực tế đó, đòi hỏi phải có sự đánh giá đúng thực trạng,
    thấy rõ được các tồn tại để từ đó đề ra các giải pháp phát triển sản xuất - chế
    biến - tiêu thụ chè của vùng, vì vậy
    Việc nghiên cứu đề tài: “Đánh giá hiệu quả kinh tế sản xuất chè của
    hộ nông dân trên địa bàn huyện Văn Chấn - tỉnh Yên Bái” sẽ góp phần giải
    quyết các vấn đề trên.


    2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
    2.1. Mục tiêu chung
    Đánh giá được đầy đủ, chính xác hiệu quả sản xuất chè của hộ nông dân
    huyện Văn Chấn, qua đó đưa ra các giải pháp nhằm phát triển sản xuất chè, nâng
    cao thu nhập và đời sống cho hộ nông dân, góp phần thực hiện chiến lược phát
    triển kinh tế của huyện theo hướng đa dạng hoá sản phẩm, đáp ứng nhu cầu
    tiêu dùng nội bộ, tăng sản lượng hàng hoá đáp ứng yêu cầu của thị trường.
    2.2. Mục tiêu cụ thể
    - Hệ thống hoá lý luận và thực tiễn về sản xuất chè và hiệu quả kinh tế
    nói chung, của cây chè nói riêng trong phát triển sản xuất kinh doanh.
    - Đánh giá thực trạng phát triển và hiệu quả kinh tế sản xuất chè ở huyện
    Văn Chấn, chỉ ra những ưu điểm và hạn chế về mặt hiệu quả sản xuất chè.
    - Đề xuất một số phương hướng và giải pháp kinh tế chủ yếu, nhằm nâng
    cao hiệu quả kinh tế của cây chè.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...