Luận Văn Đánh giá hiệu quả của phác đồ MTX/AF trong điều trị u nguyên bào nuôi nguy cơ thấp theo phân loại mớ

Thảo luận trong 'Y Khoa - Y Dược' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 2/12/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐẶT VẤN ĐỀ
    U nguyên bào nuôi là bệnh lý xuất phát do sự tăng sinh bất thường tế bào nuôi dị ghép, xảy ra sau thai trứng hoặc thai thường. Đây là một bệnh lý ác tính đáp ứng tốt với điều trị hoá chất. Hiện nay, khả năng chữa lành gần 100% đối với nhóm nguy cơ thấp và hơn 90% đối với nhóm nguy cơ cao[SUP](3,6,22)[/SUP]. Tuy nhiên, vấn đề khó khăn là người ta không biết làm thế nào để chọn ra phác đồ tốt nhất cho mỗi nhóm, nhất là đối với nhóm nguy cơ thấp, vì mỗi trung tâm nghiên cứu lại theo một cách phân chia và một phác đồ khác nhau[SUP](1,6,8,17,22)[/SUP]. Để tìm phác đồ chuẩn cho loại bệnh lý này, hội nghị FIGO tháng 9 năm 2000 họp ở Washington DC đã thống nhất sửa đổi lại cách phân chia giai đoạn giải phẫu và điểm số nguy cơ, bỏ nhóm trung bình và chia lại thành 2 nhóm: nguy cơ thấp và nguy cơ cao[SUP](10)[/SUP]. Đồng thời, đề xuất chỉ dùng khởi đầu đơn hóa trị đối với nhóm nguy cơ thấp và đa hóa trị cho nhóm nguy cơ cao[SUP](5,9,20)[/SUP].
    Ở nước ta, chưa thấy báo cáo nào nhận xét về phân loại mới này cũng như công bố phác đồ nào phù hợp nhất cho từng nhóm nguy cơ. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá hiệu quả của phác đồ MTX/AF trong điều trị u nguyên bào nuôi nguy cơ thấp theo phân loại mới và các yếu tố tiên lượng kháng thuốc, nhằm các mục tiêu sau:
    Đánh giá hiệu quả của phác đồ đối với bệnh u nguyên bào nuôi thuộc nhóm nguy cơ thấp theo phân loại của FIGO 2000
    Rút ra các yếu tố nguy cơ gây kháng thuốc
    ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
    Đối tượng nghiên cứu
    Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 41 trường hợp bệnh nhân bệnh lý nguyên bào nuôi nguy cơ thấp sau nạo thai trứng hoặc sẩy thai, nạo thai lưu, điều hòa kinh nguyệt hoặc sau đẻ được điều trị tại khoa Phụ Sản Bệnh viện Trung ương Huế từ 4/2007 - 6/2008.
    Tiêu chuẩn chọn mẫu
    Là những bệnh nhân được chẩn đoán bệnh nguyên bào nuôi biến chứng thỏa mãn yêu cầu sau:
    (1) Bệnh nhân theo dõi sau nạo thai trứng có ít nhất một trong các tiêu chuẩn sau đây: Biểu đồ β-hCG bình nguyên (± 10%) kéo dài trong 3 tuần hoặc hơn, hoặc β-hCG tăng (>10%) kéo dài trong 2 tuần hoặc hơn, hoặc β-hCG vẫn còn tồn tại > 6 tháng (>25mIU/ml), hoặc có bằng chứng mô học chẩn đoán bệnh lý nguyên bào nuôi ác tính đối với bệnh phẩm được gởi xét nghiệm giải phẫu bệnh sau nạo.
    (2) Bệnh nhân sau nạo trứng, sẩy thai, nạo thai lưu, điều hòa kinh nguyệt hoặc sau đẻ có biến chứng bệnh u nguyên bào nuôi tân sinh biểu hiện với mức β-hCG huyết thanh dương tính (mức β-hCG bình thường được chọn ≤ 25mUI/mL) kèm theo: hoặc khám lâm sàng có nhân chorio ở âm đạo, hoặc siêu âm có nhân choriocarcinoma ở tử cung, hoặc chụp X-quang phổi thấy có nhân di căn điển hình dạng bong bóng bay. Tất cả những bệnh nhân này đều được khám, đánh giá chặt chẽ và chỉ chọn vào mẫu các trường hợp thuộc giai đoạn từ I - III có điểm số nguy cơ từ 0 - 6 theo hệ thống tính điểm nguy cơ và xếp loại giai đoạn của FIGO 2000. Những bệnh nhân này có thể đã được cắt tử cung hay còn bảo tồn tử cung.
     
Đang tải...