Thạc Sĩ Đánh giá hiệu quả canh tác trên đất dốc ở huyện Mù Cang Chải- tỉnh Yên Bái

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể thay thế được
    trong sản xuất nông nghiệp. Thật vậy, ngành nông nghiệp không thể sản xuất
    nếu không có đất đai. Đất đai được gọi là tư liệu sản xuất đặc biệt vì nó vừa là
    đối tượng lao động, vừa là tư liệu lao động. Đất đai là đối tượng lao động vì
    nó chịu sự tác động của con người trong quá trình canh tác. Đất đai là tư liệu
    lao động vì nó phát huy tác dụng như một công cụ lao động. Con người dùng
    đất đai để trồng cây và chăn nuôi tạo ra thu nhập. Như vậy sẽ không có sản
    xuất nông nghiệp nếu không có đất, và chỉ có thông qua đất, các tư liệu sản
    xuất mới tác động đến cây trồng. Sử dụng đất đai đúng hướng còn quyết định
    đến hiệu quả của sản xuất.[40]
    Theo Dữ liệu năm 2005 của Dự án Dân số thế giới của Liên hợp quốc,
    thì hiện nay tổng diện tích đất trên toàn thế giới là 134.682.000km2
    , với dân
    số gần 7 tỷ người và mật độ dân số là 48 người/km2
    . Diện tích đất đưa vào sản
    xuất trồng trọt vẫn chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng diện tích đất tự nhiên. Tuy
    vậy trong nhiều thập kỷ qua đất vẫn phải tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn
    đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của gần 7 tỷ người. Và hàng năm một tỷ lệ dân số
    lớn khoảng 10% vẫn đang trong tình trạng thiếu ăn hoặc bị nạn đói đe doạ,
    nhất là ở các quốc gia đang phát triển ở Châu Phi và Châu Á.
    Việt Nam với diện tích tự nhiên là 331.689 km2
    xếp thứ 55 trong tổng
    số hơn 200 nước trên thế giới. Nhưng với dân số lớn khoảng 87 triệu người
    (thứ 12) và mật độ dân số đông 254 người/km2
    (thứ 46) nên bình quân đất tự
    nhiên theo đầu người thấp, chỉ khoảng 0,48ha/người, bằng 1/6 mức bình quân
    thế giới.
    Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, quá trình đô thị hoá
    và công nghiệp hoá đã làm cho diện tích đất nông nghiệp giảm đi nhanh chóng.
    Đặc biệt là những diện tích có điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp.
    Đất đồi núi (phần lớn là đất dốc) chiếm 3/4 diện tích đất tự nhiên của
    Việt Nam. Do thiếu đất sản xuất nên nông dân miền núi vẫn phải canh tác trên
    đất có độ dốc cao, dẫn đến việc đất bị xói mòn rất mạnh và năng suất cây
    trồng giảm nhanh. Kết quả là đất bị thoái hoá, năng suất cây trồng thấp nên
    cuộc sống của nông dân rất thấp và bấp bênh. Hiện tượng du canh du cư còn
    phổ biến. Mặc dù còn nhiều trở ngại, vùng đất dốc có rất nhiều tiềm năng
    phát triển và có vai trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển và tồn tại
    của loài người, nhất là khi hiệu ứng nhà kính thể hiện rõ ảnh hưởng của nó,
    tức là khi mực nước biển dâng cao và có thể nhấn chìm những vùng châu thổ
    rộng lớn. Đó là chưa nói đến chức năng điều hoà khí hậu mà các vùng đồi
    núi chiếm vị trí quan trọng nhất.
    Ở Việt Nam, trong điều kiện đô thị hoá, công nghiệp hoá diễn ra mạnh
    mẽ, diện tích đất nông nghiệp có xu hướng ngày càng giảm, để đảm bảo được
    việc cung cấp lương thực cho khu vực miền núi phía Bắc, đòi hỏi khu vực này
    phải phát triển sản xuất lương thực ngày càng cao.


    Mù Cang Chải là một huyện miền núi khó khăn, hẻo lánh của tỉnh Yên
    Bái, đại bộ phận dân chúng là người Mông. Trong những năm gần đây đời
    sống của bà con dần ấm no, đầy đủ đó là một phần nhờ vào hiệu quả của quá
    trình canh tác hợp lý trên đất dốc của đồng bào. Ở Việt Nam tuy đã có rất nhiều
    nghiên cứu về canh tác trên đất dốc nhưng cũng chưa có một công trình nào
    nghiên cứu sâu về canh tác trên đất dốc ở huyện Mù Cang Chải. Vì vậy, nghiên
    cứu đề tài “ Đánh giá hiệu quả canh tác trên đất dốc ở huyện Mù Cang Chải-
    tỉnh Yên Bái” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cho mục tiêu phát triển
    kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp miền núi trung du trên cơ sở phát huy
    lợi thế của vùng nói riêng.

    2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài

    2.1 Mục tiêu chung
    Đề tài nhằm chỉ ra mô hình canh tác trên đất dốc tối ưu, góp phần đẩy
    mạnh phát triển kinh tế - xã hội cho huyện Mù Cang Chải, tỉnh Yên Bái nói
    riêng và các khu vực trong cả nước có cùng điều kiện nói chung.

    2.2. Mục tiêu cụ thể

    - Hệ thống hoá được lý luận và thực tiễn về canh tác trên đất dốc.
    - Đánh giá được thực trạng và hiệu quả canh tác bền vững trên đất dốc
    của người dân huyện Mù Cang Chải.
    - Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, cũng như
    nhân rộng mô hình canh tác hiệu quả trên đất dốc cho huyện Mù Cang Chải.

    3. Đối tượng nghiên cứu

    Kết quả canh tác trên đất dốc của các hộ gia đình trên địa bàn huyện
    Mù Cang Chải – Yên Bái
    kinh tế nói chung, phát triển nông nghiệp miền núi trung du trên cơ sở phát huy
    lợi thế của vùng nói riêng.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...